Hiện nay, an toàn vệ sinh thực phẩm và ô nhiễm môi trường là những vấn đề đang được các cấp các ngành quan tâm hàng đầu, vì vậy việc thực hiện phương thức sản xuất nông nghiệp hữu cơ (NNHC) trong vài năm gần đây được coi là giải pháp. | |
Với mục tiêu phát triển nền NNHC có giá trị gia tăng cao, bền vững, thân thiện với môi trường sinh thái, gắn với kinh tế nông nghiệp tuần hoàn phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Sản phẩm NNHC được chứng nhận phù hợp với tiêu chuẩn NNHC của khu vực và thế giới; đưa Việt Nam trở thành quốc gia có trình độ sản xuất NNHC ngang bằng các nước tiên tiến trên thế giới.
Sản xuất NNHC là hệ thống quá trình sản xuất, sơ chế, chế biến, bao gói, vận chuyển, bảo quản phù hợp với tiêu chuẩn NNHC.
NNHC là một hệ thống sản xuất nhằm duy trì sức khỏe của đất, của hệ sinh thái và con người. Nó dựa chủ yếu vào các tiến trình sinh thái, sự đa dạng sinh học và các chu trình thích nghi với điều kiện địa phương hơn là sử dụng các yếu tố đầu vào mang theo những ảnh hưởng bất lợi. NNHC kết hợp phương pháp canh tác truyền thống với những tiến bộ khoa học kỹ thuật nhằm mang lại lợi ích cho môi trường chung, thúc đẩy mối quan hệ bình đẳng và nâng cao chất lượng cuộc sống cho tất cả các thành phần tham gia vào NNHC (Theo IFOAM-2005).
4 nguyên tắc của NNHC gồm sức khoẻ, sinh thái, công bằng và cẩn trọng:
Nguyên tắc về sức khoẻ (Health): NNHC cần đảm bảo và tăng cường sức khoẻ của đất, cây trồng, động vật, con người và cả hành tinh như một thể thống nhất không thể tách rời. Nguyên tắc này chỉ rõ rằng sức khoẻ của mỗi cá thể và quần thể không thể tách rời khỏi sức khoẻ của hệ sinh thái. Đất "khoẻ" tạo ra cây trồng khỏe, để nuôi dưỡng sức khoẻ của vật nuôi và con người. Vai trò của NNHC dù là trong nuôi trồng, chế biến, tiêu thụ hay tiêu dùng thì đều cần đảm bảo duy trì và tăng cường sức khoẻ của hệ sinh thái và các sinh vật sống từ nhỏ nhất ở trong đất đến con người. Đặc biệt, NNHC tập trung sản xuất các loại lương thực thực phẩm có chất lượng cao, giàu dinh dưỡng để cung cấp và bảo vệ sức khoẻ của con người. Trên cơ sở nguyên tắc này, NNHC phải tránh sử dụng các loại phân hoá học tổng hợp, thuốc trừ sâu bệnh, thuốc kháng sinh và các chất kích thích - các nguyên liệu đó sẽ có ảnh hưởng đối nghịch về sức khoẻ.
Nguyên tắc về sinh thái (Ecology): NNHC dựa vào hệ sinh thái sống động và chu trình tự nhiên. Các thành phần trong hệ sinh thái làm việc cùng nhau, cạnh tranh nhau và cùng nhau duy trì cuộc sống. Nguyên tắc này gắn NNHC sâu vào trong hệ sinh thái năng động. Nó cho thấy sản xuất phải được dựa vào các tiến trình của sinh thái và sự tái sinh. Để có được thức ăn và sức khỏe tốt phải thông qua sinh thái của môi trường sản xuất cụ thể. Ví dụ như đối với cây trồng thì cần có một môi trường đất sống động, đối với động vật nuôi cần có hệ sinh thái trang trại, đối với cá và các sinh vật biển là môi trường nước.
Các hệ thống canh tác hữu cơ, đồng cỏ chăn thả và thu hái tự nhiên cần phù hợp với các chu trình sinh thái và sự cân bằng trong tự nhiên. Quá trình quản lý phải phù hợp với quy mô, với văn hóa, với sinh thái và các điều kiện địa phương. Giảm thiểu đầu vào bằng cách tái sử dụng, tái chế và quản lý hiệu quả nguồn năng lượng và vật liệu đầu vào để duy trì và cải thiện chất lượng môi trường và bảo tồn các nguồn lực. Trong NNHC, để có được sự cân bằng sinh thái cần phải thiết kế các hệ thống trang trại, thiết lập môi trường sống cho các sinh vật và duy trì tính đa dạng sinh học. Bất kỳ ai sản xuất, chế biến, thương mại hay tiêu dùng các sản phẩm hữu cơ cần bảo vệ môi trường sống, cảnh quan chung và sẽ được hưởng lợi từ chính nó.
Nguyên tắc về sự công bằng (Fair): NNHC cần xây dựng trên mối quan hệ đảm bảo tính công bằng cùng mối quan tâm đến môi trường chung và cơ hội sống cho tất cả các sinh vật. Sự công bằng được hiểu như cách ứng xử sự hợp tình hợp lý, sự tôn trọng và tận tình không chỉ đối với con người mà cả với những mối quan hệ với các đời sống khác ở xung quanh. Nguyên tắc này nhấn mạnh rằng tất cả những gì có liên quan đến NNHC cần đối xử trong mối quan hệ như con người đảm bảo công bằng tới tất cả các tầng lớp và các bên liên quan: nông dân - công nhân - trí thức - nhà phân phối - thương nhân và người tiêu dùng. Nó cũng bao hàm rằng các vật nuôi hữu cơ cần được tôn trọng và được cung cấp những cơ hội và điều kiện sống theo bản năng, tập tính tự nhiên và được hưởng phúc lợi.
Nguyên tắc công bằng còn được thể hiện trong cách sử dụng và quản lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên không chỉ đảm bảo tính sinh thái mà còn chú trọng đến tính xã hội, sự tin tưởng đối với các thế hệ tương lai. Sự công bằng này đòi hỏi các hệ thống sản xuất, phân phối và thương mại cần cởi mở và tính toán đến các chi phí thực tế công bằng cho môi trường và xã hội.
Nguyên tắc về sự cẩn trọng (Care): NNHC cần được quản lý theo cách phòng ngừa và có trách nhiệm để bảo vệ môi trường, sức khỏe và hạnh phúc của các thế hệ hiện tại và tương lai. Lựa chọn cách quản lý, phát triển và áp dụng công nghệ trong NNHC cần được chú ý để ngăn ngừa những khả năng rủi ro trước khi áp dụng. NNHC không chấp nhận sử dụng những công nghệ không thể dự đoán được những hậu quả của nó như công nghệ gen chẳng hạn. Người làm NNHC có thể cố gắng tìm cách tăng năng suất và hiệu quả sản xuất, nhưng không được gây ra các nguy cơ có hại cho sức khoẻ và đời sống muôn loài. Do đó, các công nghệ mới khi áp dụng cần được đánh giá và cân nhắc các phương pháp hiện tại đang sử dụng. Những hiểu biết chưa đầy đủ về nông nghiệp và sinh thái khi được đưa vào áp dụng cần phải được cân nhắc cẩn thận.
Nguyên tắc này nhắm tới sự thận trọng và có trách nhiệm như là chìa khoá trong quản lý, khi lựa chọn công nghệ áp dụng trong NNHC. Khoa học là cần thiết để đảm bảo sản phẩm NNHC là lành, là an toàn và không gây hại cho môi trường sinh thái. Tuy nhiên, mỗi kiến thức khoa học thôi chưa đủ. Kinh nghiệm thực tiễn, kiến thức bản địa và phương pháp truyền thống cùng các kỹ năng được tích lũy sẽ mang đến các giải pháp giá trị đã được kiểm chứng qua thời gian.
Vật tư đầu vào sản xuất nông nghiệp hữu cơ: Vật tư đầu vào được sử dụng trong sản xuất hữu cơ theo qui định tại tiêu chuẩn NNHC; không sử dụng thuốc trừ sâu bệnh, phân bón, chất bảo quản, chất phụ gia là hóa chất tổng hợp; thuốc kháng sinh, sinh vật biến đổi gen, hóc môn tăng trưởng. Trường hợp sử dụng vật tư đầu vào như giống cây trồng, vật nuôi hữu cơ; thức ăn chăn nuôi, thủy sản hữu cơ phải được chứng nhận phù hợp tiêu chuẩn NNHC và đáp ứng các qui định, qui chuẩn kỹ thuật khác có liên quan; Phân bón và chất cải tạo đất, thuốc bảo vệ thực vật và chất kiểm soát sinh vật gây hại, chất hỗ trợ chế biến, chất phụ gia; chất làm sạch, khử trùng trong chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản phải được sản xuất từ các nguyên liệu và phương pháp phù hợp tiêu chuẩn NNHC và đáp ứng các quy định, qui chuẩn kỹ thuật khác có liên quan qui chuẩn khác có liên quan. Nguồn vật liệu đầu vào của sản xuất NNHC chủ yếu dựa vào luân canh, sử dụng phân chuồng đã qua ủ nóng, phân xanh, phân vi sinh và áp dụng các biện pháp quản lý dịch hại tổng hợp để canh tác.
Lợi ích của sản xuất NNHC: Duy trì và bảo toàn độ phì nhiêu của đất; Ít gây ô nhiễm nguồn nước (nước ngầm, sông, hồ); Bảo vệ đời sống hoang dã (chim chóc, ếch nhái, côn trùng v.v...); Đa dạng sinh học cao, nhiều cảnh đẹp khác nhau; Đối xử tốt hơn với động vật nuôi; Ít sử dụng năng lượng và đầu vào không có khả năng phục hồi từ bên ngoài; Ít dư lượng thuốc trừ sâu trong thực phẩm; Không có hoocmon và chất kháng sinh trong các sản phẩm động vật; Chất lượng sản phẩm tốt hơn (hương vị, đặc tính tích lũy). Với phương thức canh tác làm việc với chu trình tự nhiên, bảo toàn và làm phong phú hệ sinh thái nông nghiệp, NNHC sẽ mang lại lợi ích không chỉ đối với sức khỏe của người sản xuất và tiêu dùng mà còn góp phần cải tạo, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững nền nông nghiệp.
Như vậy chúng ta thấy, sản xuất NNHC là một phương pháp canh tác phối hợp toàn diện: Bên cạnh mục tiêu sản xuất hàng hóa chất lượng cao, một mục tiêu quan trọng không thể bỏ qua là bảo toàn nguồn dinh dưỡng tự nhiên trong đất, nguồn nước sạch và tính đa dạng sinh học phong phú. Nghệ thuật trong sản xuất NNHC là việc sử dụng tốt nhất các nguyên tắc và tiến trình sinh thái nhằm mục đích phát triển nông nghiệp bền vững ổn định lâu dài./.