Hình ảnh hoạt động
Liên kết website
Quảng cáo
Thống kê
Thuyền độc mộc Tân Điền - dấu vết cư dân sông nước ở Tiền Giang
(Ngày đăng: 10/04/2018)

Năm 2012, trong khi đi vớt củi tại bờ biển, khi nước biển rút, người dân ở ấp xã Tân Điền, huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang đã phát hiện một mũi thuyền độc mộc nhô lên khỏi mặt bùn và trục vớt chiếc thuyền đưa vào bờ. Sau đó tặng cho Bảo tàng Tiền Giang để nghiên cứu, trưng bày phục vụ công chúng.
Thuyền được trục vớt kéo vào bờ.

 

               Qua khảo sát, chiếc thuyền được tìm thấy cách bờ biển 8 mét, mũi thuyền chếch về hướng tây nằm ở độ sâu 3m, đuôi thuyền nằm quay ra hướng đông ở độ sâu 2,5 m so với bờ biển.

Thuyền có chiều dài: 9,7m; rộng: 1,13m; cao: 48cm; dày: 5cm; chu vi chỗ phình lớn nhất: 1,7m; chất liệu: gỗ sao; được đục khoét thủ công. Đây được xem là một trong những chiếc thuyền độc mộc lớn của Việt Nam tới thời điểm hiện nay (Thuyền phát hiện tại sông Đuống, tỉnh Bắc Ninh: dài 9,7m x rộng 0,95m; tại sông Hương, tỉnh Thừa Thiên - Huế: dài 9,4m x vòng tròn 1,43m; tại sông Cổ Chiên, tỉnh Vĩnh Long: dài 12,51m x rộng 0,9m.

Thuyền được chế tác: 2 đầu nhỏ lượn phình rộng đến phần giữa, với các đặc điểm như sau:

- Phần mũi nhỏ: tính từ đầu thuyền đến lòng thuyền (chỗ bắt đầu được đục khoét), dạng cây đục vát hình thang; ngang đầu: 32cm; dài: 88cm; ngang phần đuôi: 52cm (tính từ đầu đền chỗ bắt đầu được đục khoét); trên mặt được đục 2 lỗ hình tròn thông nhau để cột neo cách nhau 5cm, mỗi lỗ có đường kính: 5cm.

- Phần mũi lớn: tính từ đầu thuyền đến lòng thuyền (chỗ bắt đầu được đục khoét) dạng cây đục vát hình thang; ngang đầu: 36cm; dài: 80cm; ngang phần đuôi: 52cm (tính từ đầu đền chỗ bắt đầu được đục khoét).

Căn cứ vào đặc điểm ở 2 phần đầu mũi, có thể khẳng định phần mũi nhỏ là đầu thuyền để rẽ nước khi chèo thuyền.

Từ đầu thuyền đến phần đuôi được đục 11 hàng lỗ, có thể là dùng để đóng cong thuyền kết nối 2 mạn thuyền thêm phần chắc chắn.

- Hàng lỗ 1: tính từ mũi thuyền (chỗ bắt đầu được đục khoét) đến hàng lỗ 1, dài  97cm, gồm 6 lỗ tròn, đục 2 bên mạn sườn thuyền, mỗi bên 3 lỗ, cách nhau 12cm, đường kính (đk) 2cm, đục xuyên qua thân thuyền 5cm, tra mộng cây.

- Hàng lỗ 2 cách hàng lỗ 1: 70cm, gồm 6 lỗ tròn hai bên mạn sườn thuyền, mỗi bên 3 lỗ, cách nhau 12cm, đk 2cm, đục xuyên qua thân thuyền 5cm, tra mộng cây.

- Hàng lỗ 3 cách hàng lỗ 2: 70cm, gồm 8 lỗ tròn hai bên mạn sườn thuyền, mỗi bên 4 lỗ, cách nhau 12cm, đk 2cm, đục xuyên qua thân thuyền 5cm, tra mộng cây.

- Hàng lỗ 4 cách hàng lỗ 3: 70cm, chỉ còn 3 lỗ tròn do đáy thuyền bị vỡ, cách nhau 12cm, đk 2cm, đục xuyên qua thân thuyền 5cm, tra mộng cây.

- Hàng lỗ 5 cách hàng lỗ 4: 70cm, chỉ còn 5 lỗ tròn do đáy thuyền bị vỡ, cách nhau 12cm, đk 2cm, đục xuyên qua thân thuyền 5cm, tra mộng cây.

- Hàng lỗ 6 cách hàng lỗ 5: 70cm, chỉ còn 6 lỗ tròn do đáy thuyền bị vỡ, cách nhau 12cm, đk 2cm, đục xuyên qua thân thuyền 5cm, tra mộng cây.

Riêng hàng lỗ 5 và hàng lỗ 6 có hai hàng lỗ ở giữa cách nhau gần: 10 cm

- Hàng lỗ 7 cách hàng lỗ 6: 70cm, chỉ còn 2 lỗ tròn, đk 2cm và 2 lỗ bên trên mạn thuyền (đối xứng) hình chữ nhật 2,5 x 3cm, do đáy thuyền bị vỡ, cách nhau 12cm, đục xuyên qua thân thuyền 5cm, tra mộng cây.

- Hàng lỗ 8 cách hàng lỗ 7: 5,3cm, gồm 10 lỗ tròn hai bên mạn sườn thuền, cách nhau 12cm, mỗi bên 5 lỗ, đk 2cm, đục xuyên qua thân thuyền 5cm, tra mộng cây.

 - Hàng lỗ 9 cách hàng lỗ 8: 7,2cm, gồm 10 lỗ ( 8 lỗ tròn đk 2cm và 2 lỗ hình chữ nhật) hai bên mạn sườn thuyền, mỗi bên 5 lỗ, cách nhau 12cm, 2 lỗ vuông bên trên được đục xuyên qua thân thuyền 5cm, tra mộng cây. Riêng 2 lỗ vuông bên trên mạn thuyền được đục thông với 2 lỗ hình chữ nhật giữa be thuyền có đk 2,5 x 3cm.

- Hàng lỗ 10 cách hàng lỗ 9: 70cm, gồm 6 lỗ tròn hai bên mạn sườn thuền, mỗi bên 3 lỗ, cách nhau 12cm, đk 2cm, đục xuyên qua thân thuyền 5cm, tra mộng cây.

- Hàng lỗ 11 cách hàng lỗ 10: 68cm, gồm 6 lỗ tròn hai bên mạn sườn thuền, mỗi bên 3 lỗ,  cách nhau 12cm, đk 2cm, đục xuyên qua thân thuyền 5cm, tra mộng cây. Hàng lỗ 11 cách phần đuôi thuyền (phần không khoét) 70 cm.

Căn cứ vào chi tiết như đã miêu tả trên thì chiếc thuyền độc mộc được đục khoét từ một nửa thân cây rất to, tính nguyên thân cây chưa khoét có chu vi gần 4m, được đóng thêm cong thuyền để giữ cho 2 mạn thuyền được chắc chắn, bên trên được gác một số thanh ván để ngồi cho người bơi thuyền. Thuyền có thể trở khoảng 20 - 25 người hoặc chở trên một tấn hàng hóa đi lại ven bờ biển.

Tìm hiểu về thuyền độc mộc Tân Điền được phát hiện tại Tiền Giang, các nhà nghiên cứu bước đầu đánh giá: Thuyền được làm tại chỗ. Bởi theo thư tịch cổ Trung Quốc khi Chu Đạt Quan, một sứ thần của Trung Quốc có dịp đến Chân Lạp vào năm 1296 – 1297 đã mô tả như sau: “Từ chỗ vào Chân Bồ gần hết cả là vùng đều là bụi rậm của rừng thấp, những cửa rộng của con sông lớn chảy dài hàng trăm dặm, bóng mát um tùm của các gốc cổ thụ...”, hay Lê Quý Đôn ghi chép trong Phủ biên tạp lục như sau: “Phủ Gia Định, đất Đồng Nai, từ các cửa biển Cần Giờ, Xoài Rạp, Tiểu, Đại, toàn là những đám rừng hoang vu cỏ rậm, mỗi đám rừng có thể rậm hơn nghìn dặm”. Như vậy, cư dân trước kia ở cửa sông Xoài Rạp đã tận dụng một số cây cổ thụ sẵn có tại nơi cư trú để tạo thành thuyền độc mộc vận chuyển hàng hóa cũng như con người trong khu vực này và các nơi lân cận.

Hiện chiếc thuyền đang được lưu giữ, bảo quản tại Bảo tàng Tiền Giang để tiếp tục nghiên cứu, trưng bày phục vụ công chúng tìm hiểu vùng đất Tiền Giang xưa nói riêng và Nam bộ nói chung.

 

Vết khai quật, trục vớt thuyền .

        

Ths. Nguyễn Mạnh Thắng
Tin liên quan