Triết lý hành động "Dĩ bất biến ứng vạn biến" có nghĩa là lấy cái bất biến (cái không thay đổi) ứng phó với cái vạn biến nhưng không xa rời, vứt bỏ, đánh mất cái bất biến. Hoàn cảnh luôn thay đổi, cuộc sống cũng như sự nghiệp cách mạng luôn phát triển, bởi vậy, sách lược trong từng lĩnh vực cụ thể cũng phải mềm dẻo, uyển chuyển (cái vạn biến). Nhưng dù có mềm dẻo, uyển chuyển như thế nào đi chăng nữa cũng không được quên mục đích cuối cùng (cái bất biến).. | |
Khi nghiên cứu chủ đề: Học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về Nâng cao ý thức trách nhiệm, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân do Ban Tuyên giáo Trung ương biên soạn, đồng thời gắn đợt sinh hoạt chính trị rộng lớn này với kỷ niệm 40 năm thực hiện Di chúc thiêng liêng của Bác. Trong tác phẩm này, có hai lần tác giả nói đến triết lý “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” ở trang 30 và 39. Chúng tôi nhận thấy rằng đây là triết lý hành động đồng thời là triết lý sống trong suốt cả cuộc đời hoạt động của Bác. Cho nên chúng tôi xin mạn phép trao đổi đôi điều về triết lý này.
Trong lịch sử ta thấy có nhiều triết lý tách rời khỏi hành động, nói không đi đôi với làm, lý luận xa rời cuộc sống. Triết lý không gắn với hành động là triết lý để mà triết lý, triết lý tư biện, kinh viện, sách vở, xa rời, tách rời cuộc sống. Lý luận của các nhà triết học trước Mác chủ yếu chỉ là giải thích, lý giải thế giới chứ không gắn liền với nhiệm vụ cải tạo cải biến thế giới. Chính vì vậy, sự xuất hiện của triết học Mác đã tạo ra một cuộc cách mạng trong triết học vì nó không chỉ giải thích mà còn cải tạo thế giới bằng hoạt động thực tiễn của con người.
Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát triển những quan điểm khoa học của triết học Mác- Lênin và kế thừa những tinh hoa của triết học Đông Tây kim cổ để thực hiện triết lý hành động của mình và được thể hiện bằng việc nói và làm, lý luận gắn liền với thực tiễn.
Triết lý Hồ Chí Minh là triết lý hành động, triết lý hành động thể hiện rõ nhất trong tư tưởng: "Dĩ bất biến ứng vạn biến". Như chúng ta đã biết, mối quan hệ giữa bất biến và vạn biến, giữa cái không thay đổi và cái thay đổi, giữa bản thể và hiện tượng, giữa cái nhất và cái đa... là vấn đề trung tâm của triết học xuyên suốt từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây. Dĩ bất biến ứng vạn biến tức là lấy cái bất biến (không thay đổi) mà ứng phó với cái vạn biến (cái luôn thay đổi). Nhưng chữ "Dĩ” ở đây làm cho triết lý gắn liền với hành động.
Ý nghĩa nhân sinh sâu xa của triết lý này là ở chỗ trong cuộc sống nên nắm giữ cái lớn lao, đừng có sa vào những cái lặt vặt nhất thời. Không nắm được cái bất biến mà suốt đời cứ chạy theo cái vạn biến thì cả đời cũng không đạt đến mục đích.
Vậy, cái bất biến ở Hồ Chí Minh lúc đó là gì? Cái bất biến ở Hồ Chí Minh, tập trung ở bốn cái liên hệ mật thiết với nhau, không tách rời nhau, đó là độc lập, tự do, hạnh phúc, dân chủ. Không có độc lập, tức bị vong quốc, mất nước, đất nước trong cảnh nô lệ lầm than thì làm gì có tự do, lấy đâu ra tự do, hạnh phúc, dân chủ. Chính vì vậy, nước bị mất độc lập thì việc đầu tiên là phải giành cho bằng được độc lập, và trong hoàn cảnh như vậy, độc lập cho đất nước là cái bất biến số một, hàng đầu. Có độc lập rồi thì mới nói đến tự do, tự do gắn liền với độc lập, nước có được độc lập thì dân mới được tự do. Với lý do đó mà Bác luôn nhắc nhở: trước hết là phải giành cho kỳ được độc lập, tất cả cho độc lập, không có gì qúy hơn độc lập tự do. Mặt khác, độc lập còn gắn liền với dân chủ. Có độc lập rồi thì mới nói đến chuyện dân làm chủ, còn nếu không có độc lập thì cũng không thể có dân chủ. Ở đây cần lưu ý rằng điều kiện tiên quyết để có tự do, dân chủ là nước phải độc lập, nhưng không phải cứ có độc lập là có ngay tự do, dân chủ.
Như vậy, mặc dù bốn yếu tố này nằm trong mối liên hệ mật thiết, không tách rời nhau, nhưng nhìn chung chúng lại chia ra làm hai cấp độ, một bên là độc lập, còn bên kia là tự do, hạnh phúc, dân chủ. Hai cấp độ này không tách rời nhau vì nếu có cái thứ nhất mà không có cái thứ hai thì cái thứ nhất cũng trở nên vô nghĩa. Theo Người, có độc lập mà dân không được hưởng tự do, hạnh phúc thì độc lập cũng chẳng để làm gì. Ngược lại, muốn có cái thứ hai thì đầu tiên, trước hết phải có cái thứ nhất. Cái thứ nhất là tiền đề không thể thiếu được, nhưng cái thứ hai mới là mục đích cuối cùng. Từ logic đó, Người đã gắn giải phóng dân tộc với chủ nghĩa xã hội - tư tưởng trung tâm, cốt lõi của Người.
Triết lý hành động "Dĩ bất biến ứng vạn biến" có nghĩa là lấy cái bất biến (cái không thay đổi) ứng phó với cái vạn biến, ứng phó với cái vạn biến nhưng không xa rời, vứt bỏ, đánh mất cái bất biến. Hoàn cảnh luôn thay đổi, cuộc sống cũng như sự nghiệp cách mạng luôn phát triển, bởi vậy, sách lược trong từng lĩnh vực cụ thể cũng phải mềm dẻo, uyển chuyển (cái vạn biến). Nhưng dù có mềm dẻo, uyển chuyển như thế nào đi chăng nữa cũng không được quên mục đích cuối cùng (cái bất biến).
Triết lý "Dĩ bất biến ứng vạn biến" đồng thời cũng là triết lý hành động, gắn với hành động bởi lẽ vì cái bất biến đó mà Người rời bỏ quê hương ra đi tìm đường cứu nước lúc Người mới 21 tuổi, và cũng chính vì cái bất biến đó mà Người đã hy sinh cả cuộc đời mình cho dân tộc, đặt lợi ích của dân, của nước lên trên hết, suốt đời hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
Triết lý hành động "Dĩ bất biến ứng vạn biến" đồng thời cũng là triết lý sống "Dĩ chúng tâm vi kỷ tâm" (Lấy tâm của mọi người làm tâm của mình). Để đi sâu vào triết lý sống này ta hãy xem tâm, lòng mong muốn của người dân Việt Nam khi đó là gì? Đó là nước được độc lập, dân được tự do, mọi người được hạnh phúc. Bác đã lấy cái tâm (mong muốn) của mọi người làm cái tâm (mong muốn) của mình khi Người viết: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành". Bác đã lấy tâm của mọi người làm tâm của mình bằng những hoạt động thiết thực, cụ thể như ra đi tìm đường cứu nước và khi đã tìm được cái "cẩm nang" thì trở về nước thức tỉnh nhân dân, tổ chức, đoàn kết, huấn luyện họ, đưa họ ra tranh giành tự do, độc lập. Đến độ chín muồi, Người đã tiến hành thành lập Đảng, đề ra chiến lược, sách lược cách mạng cho từng thời kỳ, kêu gọi toàn dân đoàn kết, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước... từ đó đã dẫn dắt dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Với triết lý sống "Dĩ chúng tâm vi kỷ tâm" đã khiến cho Bác và Đảng ta ngoài lợi ích của nhân dân không còn lợi ích nào khác. Một ngày mà Tổ quốc chưa thống nhất, đồng bào còn chịu khổ đau là một ngày Bác ăn không ngon, ngủ không yên. Với triết lý sống "Dĩ chúng tâm vi kỷ tâm" tất yếu sẽ dẫn đến phong cách sống "Lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ", lối sống vì mọi người, hòa đồng cùng xã hội, thậm chí cả thiên nhiên cây cỏ, lối sống không cho riêng mình, và chính vì không cho riêng mình cho nên trường cửu.
Với triết lý hành động, triết lý sống như vậy, nên Người thường viết ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ đề thực hiện, để làm, tức viết không phải để mà viết, nói không phải để mà nói, mà là để thức tỉnh và từ đó đứng lên làm cách mạng.
Phương châm của Người là độc thư bất vong cứu quốc, cứu quốc bất vong độc thư, nghĩa là đọc sách không quên cứu nước, đọc sách không chỉ nâng cao tầm hiểu biết, rèn luyện trí tuệ mà phải hướng đến cứu nước cứu người, cứu nước không quên đọc sách, tức cứu nước không quên nâng cao trí tuệ. Qua đây ta thấy người cách mạng và người trí thức hòa quyện vào nhau, trong người cách mạng có người trí thức, trong người trí thức có người cách mạng, người cách mạng phải có trí tuệ, còn người trí thức phải phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, người trí thức của nhân dân.
Ở Hồ Chí Minh không chỉ triết lý gắn với hành động, đi liền với hành động mà ngược lại, ngay hành động cũng thể hiện triết lý. Đánh giá cái đúng sai của tư tưởng không phải nằm trong tư tưởng mà phải ở trong hoạt động thực tiễn. Chính thực tiễn là cái duy nhất kiểm tra tính đúng đắn của tư tưởng, là tiêu chuẩn của chân lý. Thực tiễn được tổng kết biến thành lý luận, tư tưởng. Như vậy, hoạt động thực tiễn nói lên tư tưởng. Từ trước đến nay chúng ta quen nghiên cứu tư tưởng qua câu chữ. Vấn đề là cần đi vào cái thần, cái hồn nằm sau các câu chữ.
Triết lý hành động và triết lý sống của Hồ Chí Minh qua câu chữ chỉ mới phản ánh được một phần tư tưởng, đạo đức của Người. Nhưng cao hơn nữa là những cử chỉ, hành động, hành vi, tác phong, lối sống, cách đối nhân xử thế của Người đã thể hiện đầy đủ và sinh động triết lý hành động đó là suốt đời vì dân, vì nước.
Tóm lại, ở Hồ Chí Minh, triết lý và hành động gắn liền mật thiết, chặt chẽ với nhau, triết lý hướng đến hành động, hành động nói lên triết lý, trong triết lý đã bao hàm xu thế hành động, trong hành động có triết lý, triết lý và hành động xoắn xít với nhau tạo nên triết lý hành động Hồ Chí Minh mà không phải vĩ nhân nào cũng có được.