Tuổi đã gần 80 nhưng vị Giáo sư - Tiến sĩ – Nhà giáo Nhân dân – Anh hùng Lao động Võ Tòng Xuân vẫn rất nhanh nhẹn, hoạt bát khi ông vừa đảm nhiệm chức vụ Hiệu trưởng ở Trường đại học Tân Tạo, vừa theo sát bà con nông dân Việt Nam để đưa những người “chân lấm tay bùn” này sang dạy cách trồng lúa cho bà con Châu Phi. | |
GS.TS Võ Tòng Xuân đang hướng dẫn cho một kỹ sư người Châu Phi về cách trồng lúa |
Với những cống hiến không mệt mỏi cho nền nông nghiệp nước nhà, ông vinh dự đựơc nhà nước trao tặng rất nhiều danh hiệu cao quý như Anh hùng Lao động (1985), Huân chương Lao động hạng nhất (1986), Nhà giáo Nhân dân (2000), Huy chương vì giai cấp Nông dân Việt Nam (1994)…Có những chuyện bây giờ mới biết về con người kỳ lạ này
Ông tốt nghiệp loại ưu Trường Trung cấp Kỹ thuật Cao Thắng (năm 1961). Ngày ấy ông Xuân nhận được học bổng tài trợ của chính phủ ra nước ngoài học tập. Xuất thân từ một nước nông nghiệp, nên ông không ngần ngại khi quyết định chọn trường đại học Nông nghiệp Philippin để tiếp tục nâng cao kiến thức.
Thay vì chọn học cách trồng lúa, ông lại chọn ngành công nghiệp mía đường nhưng với bản tính cần cù, ham học hỏi nên ngoài việc học về ngành công nghiệp mía đường ra, ông còn thường xuyên sang lớp bạn để học lỏm về cách trồng lúa đạt năng suất cao.
Và duyên nợ đến với cây lúa từ đây, ông không chỉ hoàn thành tốt về ngành mình học mà cũng có rất nhiều kinh nghiệm trong việc phân tích, tìm ra các kháng khuẩn cho cây lúa.
Sau khi có được tấm bằng cử nhân rồi bằng thạc sỹ (1969), ông nhận lời của Viện lúa quốc tế IRRI đặt ngay bên cạnh trường đại học mà ông đang học với mong muốn tìm ra biện pháp tối ưu nhất cho cây lúa ở miền nhiệt đới đạt năng suất cao.
Với việc nghiên cứu chăm chỉ, đầu năm 1971 ông đã có những kiến thức cơ bản về cây lúa cao sản và xuất bản cuốn sách đầu tay “Cẩm nang sản xuất lúa cao sản”. Ông nói rằng, sống và làm việc ở một đất nước bình yên, khoa học kỹ thuật tiên tiến nhưng lúc nào ông cũng canh cánh trong lòng vì miền Nam quê hương ông đang cuồn cuộn trong máu lửa.
Chính vì vậy mà khi đã có những kiến thức nhất định, ông quyết định trở về cống hiến với mảnh đất mà mình đã sinh ra và lớn lên. Tròn 10 năm học tập và làm việc ở nước ngoài, ông về nước để làm giảng viên Trường Cao đẳng Nông nghiệp Cần Thơ với một mức lương thấp hơn nhiều nên gặp vô vàn khó khăn.
Ấy vậy mà chưa lần nào ông hối hận, trái lại ông càng cố gắng làm việc nhiều hơn. Ông kể “Trước ngày giải phóng, lực lượng giảng viên ở các tỉnh thiếu trầm trọng nên ông phải đảm đương 5,6 môn học như: cây lúa, thổ nhưỡng đại cương, khuyến nông, anh văn….”
Một trong những kinh nghiệm quý giá mà ông tích luỹ được là phải cho sinh viên thực hành, thực nghiệm nhiều thì mới có các tìm tòi, sáng tạo trong học tập. Bởi thế, thay vì chỉ thao thao bất tuyệt giảng lý thuyết trên bục giảng, ông đưa ngay sinh viên của mình ra ruộng đồng để cọ xát thực tế với bà con nông dân.
Đặc biệt, khi dịch rầy nâu phá hoại trầm trọng các vùng lúa cao sản ở Đồng bằng Sông Cửu Long, ông đề nghị ban giám hiệu đóng cửa trường để đưa hơn 2000 sinh viên về khắp các tỉnh chống rầy nâu cho nông dân.
Có lẽ đây là giảng viên đầu tiên của Việt Nam đã mạnh giạn đưa mô hình sinh viên xuống ruộng đồng để học tập và đặc biệt hơn nữa là tạm đóng cả ngôi trường để giúp đỡ bà con nông dân miền Tây.
Với việc đưa giống lúa IR36 về gieo trồng ở khắp các tỉnh miền Tây, những sinh viên mà ông dạy bảo đã thực nghiệm chính xác trên ruộng đồng, dịch rầy nâu được đẩy lùi, năm đó năng suất lúa đã tăng lên 80-90%, bà con nông dân được vụ mùa bội thu.
Từ đây, ông được người miền Nam biết đến như một vị cứu tinh, một “bác sỹ” chuyên bảo vệ cây lúa cho nông dân.
Mô hình đưa sinh viên về với ruộng đồng tiếp tục được ông nhân rộng ra khi hoà bình lặp lại và được phát lên chương trình “Gia đình bác Tám” của Đài phát thanh TP.HCM vào mỗi buổi sáng.
Những đóng góp của ông cho ngành giáo dục, cho bà con nông dân cùng với các công trình nghiên cứu thiết thực khoa học về cây lúa đã giúp ông nhận được học vị Giáo sư năm 1981 và trở thành Giáo sư trẻ tuổi nhất Việt Nam, khi đó ông mới 41 tuổi đời.
Sau ngày đất nước thống nhất, nông nghiệp được nhà nước chủ trương đưa vào làm theo tập đoàn sản xuất hoặc hợp tác xã. Thấy rằng, với hình thức này sẽ tạo ra sức ì cho một số bà con vì họ sẽ trông chờ vào người khác. Ông trăn trở và quyết định cải tổ dần dần, từ một làng một xã sẽ lan toả ra các vùng khác.
Năm 1979, ông cùng nông dân Tập đoàn sản xuất 9, ấp Lung Đen, xã Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng trồng lúa theo hình thức lén lút khoán sản phẩm. Với cách làm này, nông dân ấp Lung Đen đã được những vụ mùa bội thu, trong nhà lúa lúc nào cũng đầy bồ và bán nhiều nhất.
Đến ngày 2/9/1980, trong “Chương trình Kỹ thuật Nông nghiệp” trên Đài Truyền hình TP.HCM và Cần Thơ, ông công bố về hiệu quả khả quan về sản xuất lúa theo dạng khoán này. Thế nhưng, ban hợp tác hóa Trung ương ở Cần Thơ cho rằng ông đã làm ngược lại chỉ đạo nên không cho Đài tiếp tục phổ biến và khiển trách ông cũng như nhà đài.
Sự kiện này suýt quật ngã ông nhưng nghĩ đến cảnh một nước nông nghiệp mà nông dân phải sống trong cảnh đói khát vì không có cơm ăn lại càng thôi thúc ông đứng dậy đấu tranh. Vì vậy, trong những năm 1980-1987 khi là Đại biểu quốc hội, ông đều có những ý kiến tranh luận về phát triển nông nghiệp bền vững cho đất nước, đặc biệt là việc khoán trồng lúa cho nông dân.
Những cố gắng không mệt mỏi của ông đã được đền đáp khi mùa thu năm 1981, các đại biểu đã tiếp nhận những thành quả của ông ở ấp Lung Đen và Trung ương Đảng đã thực hiện “khoán 100” trên toàn quốc.
Rồi đến kỳ họp quốc hội năm 1986, ông lại tiếp tục có những kiến nghị dẫn đến chính sách “Khoán 10”, đất đai được khoán ổn định lâu dài cho nông dân, họ yên tâm canh tác trên thửa ruộng của mình mà không còn canh cánh lo âu thửa ruộng lần sau của mình sẽ như thế nào nữa.
Với những chính sách này, từ một nước thiếu gạo, năm 1989, Việt Nam có thêm một bước tiến mới là “á khoa” xuất khẩu gạo đứng thứ ba trên thế giới, từ đây cuộc sống của bà con nông dân đã thay một màu áo mới.
Tuy nhiên, ông chia sẻ: “Bà con nông dân của mình bây giờ không còn lo đói, lo khát nữa nhưng vẫn còn ngổn ngang khó khăn. Muốn đổi đời cho nông dân, phải lập công ty cổ phần nông nghiệp, trong đó trong đó nông dân góp vốn bằng lúa”.
Giaó sư Võ Tòng Xuân đã cùng một số nhà doanh nghiệp thiết kế mô hình công ty Cổ phân Nông nghiệp để tạo điều kiện cho nông dân làm giàu. Loại công ty này quy tụ nông dân lại với nhau để sản xuất nguyên liệu nông sản theo qui trình Global GAP do các nhà khoa học thiết kế.
Doanh nghiệp chế biến sẽ bảo đảm thu mua nguyên liệu giá có lợi cho nông dân để sản xuất hàng có thương hiệu bán trong nước hoặc xuất khẩu. Mọi nông dân có thể mua cổ phần của công ty bằng sản phẩm (lúa hoặc nông sản khác) tích lũy sau mỗi mùa vụ, và được chia lời sau kết toán hàng năm.
“Đây là cú đấm cuối cùng trong cuộc đời tôi để giúp bà con nông dân khấm khá lên. Việc làm này tuy rất khó nhưng tôi sẽ cố gắng hết mình” – vị Giáo sư già chia sẻ
Là người luôn trăn trở với nỗi cơ cực của bà con nông dân, có lẽ cũng vì thế mà đến khi tuổi đã nghĩ hưu, năm 2000 ông nhận lời của UBND tỉnh An Giang mở trường đại học An Giang với khát vọng được “nhân mình” ra lo cho nông dân nhiều hơn.
Và đến nay, đã ở độ tuổi ngoài 70 nhưng ông vẫn hăng say làm hiệu trưởng Trường đại học Tân Tạo, cố vấn cho một số trường đại học khác như đại học An Giang, Kinh tế kỹ thuật Cần Thơ…, chủ trì thành lập công ty cổ phần Đầu tư Nghiên cứu và Xuất khẩu gạo thơm ITARICE.
Giáo sư tâm niệm, “quy định của nhà nước 60 tuổi đã nghỉ hưu nhưng tôi thấy sức khỏe của mình còn tốt, mình vẫn còn minh mẫn sáng suốt thì tất nhiên là phải tiếp tục làm việc, tiếp tục cống hiến”.
Ngoài ra, ông còn hướng dẫn sinh viên cao học và nghiên cứu sinh, làm cố vấn khoa học cho các tổ chức quốc tế và có những nghiên cứu khoa học để đưa tên tuổi của Việt Nam đến với các diễn đàn quốc tế.
Khát vọng chưa dừng lại ở đây, ông còn muốn cây lúa Việt được gieo trồng khắp 5 châu. Vì vậy, năm 2006, cùng hợp tác với một số doanh nghiệp, ông đã đưa các cán bộ kỹ thuật, chuyên viên thủy lợi và một số nông dân miền Tây qua các nước Châu Phi như Liberia, Nigeria, Sierra Leone, Mozambique, Sudan… để cùng với nông dân Châu Phi trồng lúa có năng suất cao.
Giống lúa ở Việt Nam rất thích hợp với đất trồng ở Châu Phi nên mạng lưới đưa nông dân Việt Nam sang dạy cách trồng lúa cho nông dân Châu Phi tiếp tục được mở rộng.
Không chỉ cùng nông dân Việt giới thiệu, quảng bá sản phẩm thuần nông của người Việt trên đất Châu Phi mà Giáo sư – Tiến sĩ Võ Tòng Xuân còn chủ động để nông dân các nước này có dịp mục sở thị nền “văn minh lúa Việt” bằng việc mời và trực tiếp hướng dẫn họ thăm quan, tìm hiểu thực tế đồng ruộng các tỉnh Đồng bằng Sông Cửu Long.
Sau 40 năm cống hiến hết mình cho ngành nông nghiệp Việt Nam phát triển, Giáo sư – Tiến sĩ Võ Tòng Xuân hoàn toàn mãn nguyện để nghỉ ngơi. Vậy nhưng, ông vẫn cố gắng làm việc không ngừng để thực hiện thành công hai cú đấm cuối cùng là giáo dục đào tạo hiện đại và mô hình nông nghiệp tiên tiến để bà con nông dân Việt phát triển vững chắc hơn./.