Tại Hội nghị bàn giải pháp phát triển cá tra Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) được tổ chức tại Cần Thơ, Bộ trưởng Cao Đức Phát nhấn mạnh: nhiệm vụ 6 tháng cuối năm là vận động cho ra đời Hiệp hội cá tra. Song song đó, phải nỗ lực bảo vệ và phát triển thị trường xuất khẩu, tăng cường nâng cao chất lượng vùng nuôi, chế biến. Trong đó, đẩy mạnh việc áp dụng GlobalGAP trên con cá tra, nếu 6.000 ha nuôi cá tra ở ĐBSCL đều áp dụng tiêu chuẩn này thì sự phát triển nghề nuôi cá tra sẽ bền vững. | |
Thu hoạch cá tra ở Tân Phong, Cai Lậy, Tiền Giang |
Cá tra thập phần khó khăn
Với diện tích nuôi cá tra khoảng 6.000 ha và kim ngạch xuất khẩu hàng năm xấp xỉ 1,5 tỉ USD, con cá tra đã trở thành sản phẩm chủ lực và góp phần giải quyết việc làm cho hàng ngàn nông dân, công nhân lao động ở ĐBSCL.
Tuy nhiên, tình trạng bán phá giá của một số doanh nghiệp xuất khẩu đã làm người nuôi, người chế biến thiệt hại nặng nề, đồng thời ảnh hưởng đến thu ngoại tệ quốc gia. Trong khi đó, tình trạng ô nhiễm môi trường, nguồn nước từ quá trình gia công, chế biến thức ăn thủy sản, chế biến cá tra xuất khẩu ngày càng nghiêm trọng dẫn đến nguy cơ phá vỡ cân bằng sinh thái, môi trường sống ngày càng cao. Bên cạnh đó, giá thành sản xuất liên tục tăng do giá thức ăn thủy sản tăng “chóng mặt” so với năm 2009 làm giá thành nuôi cá tra lên cao.
Trong khi đó, từ giữa tháng 4/2010 đến nay, sản lượng cá tra đến kỳ thu hoạch tăng trở lại, nguồn cung dồi dào, giá cá tra giảm 500 - 1.000 đồng/kg tùy địa phương. Nhiều chuyên gia trong ngành nuôi, chế biến Thủy sản dự báo nếu trong thời gian tới, giá thức ăn vẫn duy trì ở mức cao thì giá thành sản xuất cá tra nguyên liệu có thể tăng thêm khoảng 1.000 đồng/kg, khi đó người nuôi cá có lợi nhuận ít mà thua lỗ thì nhiều.
Trách nhiệm “nặng vai” người sản xuất
Hiện nay, Châu Âu là thị trường nhập khẩu các sản phẩm thủy sản lớn nhất của Việt Nam. Tuy nhiên, thị trường này ngày càng quy định khắt khe đối với các sản phẩm thủy sản nhập khẩu. Người tiêu dùng Châu Âu rất chú trọng nguồn gốc của sản phẩm thủy sản. Họ muốn biết trong quá trình nuôi thủy sản, người nuôi sử dụng loại thuốc, thức ăn cho tôm, cá có để lại dư lượng trên sản phẩm hay không?... Không những thế, thị trường Châu Âu còn đòi hỏi, mong đợi những sản phẩm thủy sản nhập khẩu phải an toàn và đảm bảo cho sức khỏe như mức độ nhiễm vi sinh phải thấp, không có hoặc có rất thấp dư lượng thuốc trong sản phẩm. Đặc biệt, hiện nay, không chỉ thị trường Châu Âu mà nhiều thị trường nhập khẩu khác trên thế giới cũng rất quan tâm đến nhiều vấn đề khác nhau như: tính bền vững của môi trường sản xuất; chế độ lương, ngày nghỉ của công nhân; việc sử dụng lao động trẻ em trong sản xuất…
Giai đoạn năm 1999 – 2009, các nhà nhập khẩu nước ngoài đã quan tâm rất nhiều đến vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm ở khâu sản xuất của nhà máy chế biến thực phẩm và hệ thống các nhà phân phối, nhà bán lẻ... Từ những diễn biến hiện tại, có thể suy đoán rằng, giai đoạn 2010 – 2019, tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm và nhiều quy định khác sẽ được các nước nhập khẩu xiết chặt ở khâu nuôi trồng, tại các hộ chăn nuôi, nông trại. Bởi lẽ, sự khai thác tài nguyên không kiểm soát của nhiều quốc gia trên thế giới có thể dẫn đến sự tuyệt chủng của nhiều giống loài. Vì thế, nhu cầu bảo tồn thiên nhiên hoang dã trở nên cấp bách. Mặt khác, vì lợi ích kinh tế, nhiều người chăn nuôi có thể đưa vào quá trình sản xuất những hóa chất cấm, hoặc sử dụng hóa chất không đúng quy định, gây ảnh hưởng đến sức khoẻ người tiêu dùng. Điều này dẫn đến một trong những hệ quả là môi trường ngày càng ô nhiễm dẫn tới nguy cơ mất an toàn sản phẩm... Chính vì thế, để bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng trong nước, đem đến sự công bằng trong thương mại toàn cầu (người nuôi, trồng, chế biến... phải có trách nhiệm với xã hội, với môi trường), nhiều rào cản thương mại (qui định áp dụng các tiêu chuẩn, bán phá giá, chống bán phá giá, dư lượng hóa chất, an toàn thực phẩm, tên gọi, xuất xứ...) được các nhà nhập khẩu đưa ra và kiểm soát ngày càng chặt chẽ.
Chứng nhận chất lượng “toàn cầu”
Hiện nay, nhu cầu tại nhiều thị trường chính của xuất khẩu thủy sản Việt Nam như châu Âu, Nhật, Mỹ... đang có xu hướng giảm và khách hàng ngày càng kỹ tính hơn. Để giữ và làm hài lòng khách hàng này thì các sản phẩm, dịch vụ của nhà sản xuất trong nước phải thỏa mãn các yêu cầu của họ. Một trong những yêu cầu quan trọng chính là tự người nuôi, nhà chế biến, doanh nghiệp... phải thực hiện tốt và áp dụng các tiêu chuẩn, quy định của các nước nhập khẩu vào quy trình sản xuất. Hiện nay, các vấn đề về an toàn thực phẩm được xem là tính toàn cầu. Vì thế, kim ngạch xuất khẩu thủy sản ở ĐBSCL và cả nước có tăng trưởng được hay không phục thuộc vào việc người nuôi, trang trại, nhà chế biến và cả doanh nghiệp áp dụng các tiêu chuẩn đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm vào sản xuất như thế nào?!
Tuy nhiên, vấn đề hiện nay, có quá nhiều quy định, tiêu chuẩn liên quan đến ngành nuôi trồng, chế biến, xuất khẩu thủy sản. Cụ thể: SQF 1000 (thực phẩm An toàn và Chất lượng), SA 8000 (đánh giá các vấn đề trách nhiệm xã hội), ISO 9001: 2008... cho nghề nuôi trồng; SQF 2000, HACCP (phân tích mối nguy và điểm kiểm soát tới hạn), SA 8000, BRC (cung cấp đánh giá cơ bản về các công ty cung cấp thực phẩm cho các nhà bán lẻ), IFS (tiêu chuẩn thực phẩm quốc tế) cho các nhà nhập khẩu, phân phối, bán lẻ. Chính vì thế, việc áp dụng tiêu chuẩn nào để các sản phẩm xuất khẩu mang tính quốc tế hóa?
GlobalGAP là tiêu chuẩn về nông trại được công nhận quốc tế dành cho việc thực hành sản xuất nông nghiệp tốt (GAP). Giấy chứng GlobalGAP là một sự tái cam kết rằng, thực phẩm đạt được mức độ có thể chấp nhận được về sự an toàn và chất lượng; quá trình sản xuất được chứng minh có quan tâm đến sức khỏe, sự an toàn, phúc lợi của người lao động... Hiện nay, Global GAP đã có mặt trên 140 quốc gia và Tập đoàn Bureau Veritas Certification (Pháp) đã cấp trên 60.000 giấy chứng nhận này. Riêng Việt Nam có hơn 1.500 giấy chứng nhận GlobalGAP được cấp trong hoạt động sản xuất, xuất khẩu nông sản. Đặc biệt, ở ĐBSCL, nhiều vùng nuôi thủy sản, chủ yếu là cá tra, tôm sú của một số doanh nghiệp như: Công ty cổ phần Hùng Vương (Tiền Giang), Công ty cổ phần Nam Việt (Cà Mau), Công ty Mỏ Ó (Sóc Trăng),... đang tiến hành các bước để sản xuất theo tiêu chuẩn Global GAP.
Tại An Giang, là tỉnh có diện tích nuôi cá tra lớn nhất ĐBSCL, công ty Cổ phần Thủy sản chế biến Thủy sản Ntaco đã xây dựng vùng nuôi cá tra 32 ha theo tiêu chuẩn GlobalGAP, sản lượng thu hoạch hàng năm đạt hơn 10.000 tấn. Với vùng nuôi cá tra đạt tiêu chuẩn GlobalGAP này, Ntaco đã mở toang cánh cửa vào thị trường Châu Âu khi đã cụ thể hóa được nguồn gốc sản phẩm, thức ăn cho cá, các vấn đề môi trường, sử dụng lao động… Còn Công ty Cổ phần Việt An thì cho biết, nhờ thực hiện theo các tiêu chí của GlobalGAP mà Công ty Cổ phần Việt An đã trở thành một trong 5 đơn vị xuất khẩu thủy sản hàng đầu Việt Nam, với hơn 100 khách hàng thường xuyên ở Châu Âu và Châu Mỹ. Trong năm 2009 vừa qua, tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của công ty đã đạt trên 62 triệu USD, lợi nhuận đạt 84 tỷ đồng. Với việc hình thành được 2 vùng nuôi theo tiêu chuẩn GlobalGAP tại huyện Châu Thành và Chợ Mới trên diện tích 40 ha cùng những chứng chỉ về vệ sinh an toàn thực phẩm đã đạt được, dự kiến trong năm 2010 này, Công ty Cổ phần Việt An sẽ đạt kim ngạch xuất khẩu 1.600 tỷ đồng, lợi nhuận 124 tỷ đồng.
Về chi phí thực hiện vịêc quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn GlobalGAP Ông Trần Văn Hùng, chủ tịch hội đồng quản trị công ty TNHH Hùng Cá (Đồng Tháp) cho biết, công ty của ông đang nuôi 30 ha cá tra theo qui trình GlobalGAP, chi phí sản xuất chỉ tăng thêm 3%, trong khi giá trị tăng thêm đến 12%. Ông Hùng cũng cho biết thêm, công ty vừa ký hợp đồng xuất lô hàng 1.000 tấn cá tra nuôi theo qui trình GlobalGAP với giá cao hơn giá thị trường 30 cent/kg.
Theo xu hướng chung của cả thế giới, vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc sản phẩm ngày càng được chú trọng, là tiền đề để sản phẩm thủy sản Việt Nam thâm nhập vào thị trường thế giới, nhất là các thị trường khó tính như EU, Mỹ... Và qua thực tế áp dụng tại một số doanh nghiệp, đã đem lại hiệu quả kinh tế khả quan với giá bán cao hơn giá trị trường. Vì vậy, trong thời gian tới, việc áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, theo định hướng của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là tiêu chuẩn GlobalGAP, là việc làm cần thiết đối với các doanh nghiệp và người nuôi cá tra thâm canh ở ĐBSCL/.