Hình ảnh hoạt động
Liên kết website
Quảng cáo
Thống kê
Cảnh báo về sử dụng kháng sinh trong nuôi trồng thủy sản
(Ngày đăng: 06/08/2012)
Với nỗ lực tăng nhanh sản lượng thuỷ sản và kim ngạch xuất khẩu, các nước đang phát triển rất chú trọng tới nuôi trồng thủy sản. Ðể đạt được sản lượng và lợi nhuận cao nhất, nhiều ngư dân hiện đang áp dụng các phương thức nuôi thâm canh. Nhưng các vật nuôi lại bị ảnh hưởng nhiều hơn bởi những áp lực và bệnh tật dẫn đến những vụ dịch bệnh gây chết hàng loạt.

Tình hình sử dụng kháng sinh trong nuôi trồng thủy sản

Những năm gần đây nuôi trồng thủy sản phát triển với tốc độ rất nhanh đặc biệt là nuôi cá tra thâm canh, do lợi nhuận và một số yếu tố chủ quan khác nên người nuôi thường thả nuôi với mật độ cao. Do đó áp lực về con giống rất lớn, hiện nay các cơ sở cho sinh sản nhân tạo thường cho đàn cá bố mẹ sinh sản nhiều lần trong năm và kéo dài thời gian sinh sản của đàn cá bố mẹ, hiện tượng đồng huyết trong đàn cá giống đã làm cho đàn cá giống giảm đi sức đề kháng với bệnh. Hiện nay, thức ăn sử dụng trong nuôi cá tra toàn bộ là thức ăn công nghiệp, lượng cho ăn và cách cho ăn có lúc không được quản lý chặt chẽ nên lượng thức ăn dư thừa cộng với chất thải cá thải ra ngoài môi trường nước nuôi, làm cho môi trường nước nuôi bị dơ, tạo điều kiện cho sự phát triển của ký sinh trùng ký sinh trên cơ thể cá. Thêm vào đó là khả năng miễn dịch của cơ thể cá bị giảm tạo điều kiện thuận lợi cho vi khuẩn tấn công gây chết hàng loạt làm thiệt hại về kinh tế cho người nuôi, khi cá bị bệnh người nuôi bắt buộc phải sử dụng kháng sinh để điều trị bệnh và đây là phương pháp hiệu quả nhất trong việc điều trị bệnh do vi khuẩn gây ra. Tuy nhiên việc sử dụng kháng sinh trong trị bệnh của người nuôi không đúng cách và sử dụng nhiều loại kháng sinh cùng một lúc với nồng độ cao gây lãng phí thuốc và hiệu quả của việc trị bệnh không cao gây khó khăn cho việc trị bệnh lần sau vì phải sử dụng loại thuốc kháng sinh khác và với liều lượng cao hơn để tránh hiện tượng kháng thuốc và nguyên nhân khác nữa cũng gây ra hiện tượng kháng thuốc là việc sử dụng các loại kháng sinh với hàm lượng nhỏ trong thức ăn của thủy sản như một chất kích thích sinh trưởng và bảo quản thức ăn. Hiện nay hầu như các hộ nuôi cá tra thâm canh điều phải sử dụng kháng sinh để điều trị bệnh, tuy nhiên người nuôi phải nắm rõ kháng sinh nào nằm trong danh mục cho phép sử dụng , kháng sinh nào hạn chế sử dụng và kháng sinh nào không cho phép sử dụng (theo thông tư số 15 ngày 17/3/2009 của Bộ Nông nghiệp & PTNT) để từ đó có sự lựa chọn loại kháng sinh phù hợp với từng loại bệnh. Lưu ý việc sử dụng kháng sinh trong điều trị bệnh phải ngưng sử dụng kháng sinh ở giai đoạn tháng cuối vì sẽ tồn lưu trong cơ thể cá gây khó khăn cho người nuôi khi xuất bán cũng như xuất khẩu ra các thị trường nước ngoài do ảnh hưởng đến sức khỏe của người tiêu dùng. Việc sử dụng kháng sinh trong nuôi trồng thủy sản là rất cần thiết tuy nhiên những hệ quả của nó đem lại là không nhỏ, với việc sử dụng kháng sinh như hiện nay sẽ làm cho hệ vi sinh vật và động thực vật thủy sinh trong tự nhiên bị hủy diệt làm mất cân bằng môi trường thủy sinh, làm giảm sức chứa của môi trường tự nhiên kéo theo một hệ quả tất nhiên là sự ô nhiễm môi trường, điều này sẽ có tác động rất xấu đối với vật nuôi. Kháng sinh tồn tại trong môi trường nước cũng có ảnh hưởng đến sức khỏe về lâu dài của người dân trong vùng nuôi.

 Sự “lờn” kháng sinh

Trong số các bệnh của thủy sản thì nguyên nhân chủ yếu là do vi khuẩn gây ra với những vụ dịch bệnh có qui mô lớn. Thông thường, người ta sử dụng thuốc kháng sinh để kiểm soát các vi khuẩn gây bệnh. Do việc sử dụng không đúng cách và quá nhiều các loại thuốc kháng sinh nên đã gây ra hiện tượng vi khuẩn kháng thuốc (antibiotic resistence) và tích tụ dư lượng thuốc kháng sinh trong thịt thủy sản. Một nguyên nhân khác gây ra hiện tượng vi khuẩn kháng thuốc là việc sử dụng các loại kháng sinh với hàm lượng nhỏ trong thức ăn của thủy sản như một chất kích thích sinh trưởng. Mặc dù thuốc kháng sinh đóng một vai trò hết sức quan trọng trong việc chống lại nhiều bệnh tật cho con người và các loài động vật thủy sinh, nhưng việc sử dụng bừa bãi trong nuôi trồng thuỷ sản có thể gây ra nhiều vấn đề nghiêm trọng như gây độc, biến đổi hệ vi khuẩn của người tiêu dùng hoặc làm cho người tiêu dùng cũng bị kháng thuốc. Hiện tượng kháng thuốc kháng sinh là khả năng mà một sinh vật có thể chịu được tác động của các loại kháng sinh. Các gen kháng thuốc thường có sẵn trong các loài vi sinh vật tạo ra kháng sinh (antibiotic - producing -bacteria) nhằm bảo vệ chúng khỏi tác động của thuốc kháng sinh này. Những gen này có thể được hình thành trong các loài vi khuẩn khác thông qua sự trao đổi gen với một vi khuẩn tạo ra kháng sinh, do vậy chúng có khả năng tạo ra cơ chế làm trung hòa hoặc phá hủy các loại thuốc kháng sinh. Hiện nay, theo thống kê tại phòng kiểm nghiệm bệnh cá-Chi cục Thủy sản Tiền Giang về kết quả làm kháng sinh đồ trên cá bệnh do người dân đem đến, trên 10 loại kháng sinh thường dùng phổ biến hiện nay như: Flofenicol, Oxytetracyline, nhóm sulfonamid… thì đa số các mẫu cá bệnh kháng với khoảng 7-8 loại kháng sinh, thậm chí có mẫu cá bệnh kháng với cả 10 loại kháng sinh được dùng làm kháng sinh đồ.

Các loại thuốc kháng sinh thường sử dụng trong nuôi trồng thủy sản

Các loại kháng sinh được sử dụng thông dụng nhất trong nuôi trồng thủy sản là: Nhóm Sulfonamid: bao gồm các tác nhân kháng khuẩn có tác dụng kìm hãm hoạt động của axit folic và có thể hình thành tác dụng hiệp đồng (synergism). Các kháng sinh nhóm sulfonamid kết hợp trimethoprim được sử dụng rộng rãi trong nuôi trồng thuỷ sản. Nhóm Tetracycline: là một nhóm gồm nhiều kháng sinh chủ yếu có tác dụng kìm hãm vi khuẩn có trong tự nhiên. Chúng làm ảnh hưởng đến quá trình tổng hợp protein trong cả các vi khuẩn Gram âm (-) và vi khuẩn Gram dương (+). Những kháng sinh này được sử dụng rộng rãi trong nuôi trồng thuỷ sản. Nhóm Quinolone: Chúng có tác dụng mạnh đối với các vi khuẩn Gram (+) và được sử dụng nhiều tại Nhật Bản. Tác dụng kháng khuẩn bao gồm cả tác dụng kìm hãm và tiêu diệt vi khuẩn do chúng có thể gây ảnh hưởng đến cấu trúc xoắn của ADN trong vi khuẩn. Erythromycin: được sử dụng rộng rãi trong nuôi cá hồi, nó là loại thuốc rất hiệu quả để chữa những bệnh do vi khuẩn gây ra. Chloramphenicol: được sử dụng rộng rãi tại Hoa Kỳ và Pháp. Việc sử dụng chúng trong nuôi trồng thuỷ sản là rất hạn chế tại nhiều nước bởi vì nó là một loại thuốc dùng để chữa bệnh cho người. Rất khó có thể có được những số liệu đáng tin cậy về tình hình sử dụng thuốc kháng sinh trong nuôi trồng thuỷ sản. Tại NaUy, trong năm 1990, có khoảng 50 loại kháng sinh được sử dụng trong nuôi trồng thuỷ sản và gần gấp đôi số lượng thuốc được sử dụng cho con người trong năm đó. Tình hình cũng diễn ra tương tự đối với các nước đang phát triển.

Cơ chế của sự kháng thuốc

Một số loài vi sinh vật có sẵn khả năng chịu được một số loại kháng sinh nhất định. Sự kháng thuốc kháng sinh có thể coi như là đặc tính vốn có hoặc có thể được hình thành của các vi sinh vật này. Có nhiều cách khác nhau gây ra sự kháng thuốc của vi sinh vật. * Một số loại kháng sinh nhất định, chẳng hạn như penicillin chỉ tác dụng lên lớp vỏ tế bào nên có thể không có hiệu quả đối với những vi sinh vật không có vỏ tế bào (ví dụ như Mycoplasm không có một lớp vỏ tế bào đặc trưng). * Những sinh vật không cho phép một số loại kháng sinh nhất định ngấm vào bên trong, do vậy làm mất tác dụng của kháng sinh đó (ví dụ như một số vi khuẩn Gram âm không cho phép penicillin ngấm vào nên chúng có khả năng kháng penicillin). * Một số vi sinh vật có khả năng làm biến đổi thuốc kháng sinh làm cho nó mất hoạt tính (Ví dụ : vi khuẩn Staphylococcus sinh b -lactum làm gãy vòng b -lactum của hầu hết các penicillin và làm chúng mất hoạt tính). * Các vi sinh vật có thể thay đổi cách thức trao đổi chất bị một loại kháng sinh kiềm chế, do vậy chúng có thể kháng lại loại kháng sinh đó. * Các vi sinh vật cũng có thể đào thải một loại kháng sinh ra khỏi tế bào, do vậy nó trở nên có khả năng kháng loại kháng sinh đó. - Sự kháng thuốc kháng sinh gián tiếp trong vi sinh vật có thể hình thành thông qua các gen nhiễm sắc thể hoặc thông qua các plasmit (cấu trúc tự sao chép mang gen trong tế bào chất). Sự kháng thuốc hình thành gián tiếp thông qua các gen nhiễm sắc thể (Chromosomal genes) Có thể dễ dàng phân lập trong phòng thí nghiệm các vi khuẩn kháng thuốc trong môi trường mẫn cảm kháng sinh. Thông thường, hình thức kháng thuốc là do sự đột biến trong các gen nhiễm sắc thể. Tần số xuất hiện của loại đột biến này là rất thấp (từ 10-5 đến 10-7) và thường xuất hiện khi vi khuẩn chịu một hàm lượng kháng sinh nhỏ hơn mức có thể tiêu diệt được chúng. Hình thức kháng thuốc tương tự có thể xảy ra trong môi trường thuỷ sinh khi vi khuẩn chịu một lượng kháng sinh nhỏ hơn mức có thể tiêu diệt chúng do việc sử dụng kháng sinh không đúng cách và những kháng sinh bị tan ra từ những thức ăn có trộn thuốc. Dưới những điều kiện trên, sự kháng thuốc được hình thành là do sự thay đổi hoạt tính ban đầu của thuốc hoặc làm giảm sự hình thành các enzyme chủ chốt, do vậy làm giảm tác dụng của thuốc. Sự kháng thuốc kháng sinh được hình thành gián tiếp qua các gen nhiễm sắc thể của vi sinh vật không dễ dàng được di truyền lại. Sự kháng thuốc hình thành gián tiếp thông qua thể R-plasmit (R-plasmid-mediated-resistance). Plasmit là các vòng ADN ngoài nhiễm sắc thể của vi khuẩn. Các R.plasmit có các gen được mã hoá theo các enzym mới làm mất hoạt tính của thuốc. Các R-Plasmit có thể làm trung gian cho sự kháng một hay nhiều loại thuốc kháng sinh thông qua các gen mã hoá theo cơ chế bất hoạt hoá một hay nhiều loại kháng sinh. Hình thức kháng thuốc gián tiếp thông qua R-plasmit có khả năng di truyền. Kiểm soát sự kháng thuốc vi sinh vật có thể hình thành khả năng kháng đối với bất cứ loại thuốc kháng sinh nào nếu có những điều kiện thích hợp như hàm lượng thuốc, thời gian tiếp xúc với thuốc .v.v... Biện pháp kiểm soát vấn đề này có thể theo 2 cách. Tìm ra những loại thuốc mới: Có hai xu hướng nghiên cứu các loại thuốc kháng khuẩn mới. Thứ nhất là tạo ra loại tương tự với những thuốc kháng khuẩn hiện có nhưng dễ làm hơn và hiệu quả hơn. Lý do là những hợp chất mới được làm nhại lại theo những hợp chất cũ và có thể đoán trước được tác dụng của nó. Trong nhiều trường hợp những thông số như tính tan và ái lực có thể được thay đổi bằng cách biến đổi cấu trúc hoá học của nó mà không làm thay đổi vị trí kháng thuốc. Những hợp chất mới có thể có tác dụng mạnh hơn những hợp chất ban đầu. Xu hướng thứ hai là hình thành các loại thuốc kháng khuẩn mới. Rất khó đồng nhất hoá được do chúng ta phải phân lập chúng từ các nguồn trong tự nhiên hoặc là phải tự tổng hợp được với số lượng lớn. Những thuốc mới được sản xuất như vậy phải có tác dụng với những cấu trúc vi khuẩn cụ thể và đối với những vi sinh vật cụ thể, phải ít độc với những sinh vật cao cấp hơn, đồng thời về mặt cấu trúc không được giống với những hợp chất hiện tại. Bằng cách này có thể loại trừ được hiện tượng kháng thuốc hiện tại. Biện pháp quản lý khi tiến hành nuôi trồng thuỷ sản, chỉ nên sử dụng các loại kháng sinh khi không còn phương cách nào khác để kiểm soát những vụ dịch bệnh, bởi vì việc sử dụng bừa bãi các kháng sinh sẽ dẫn đến việc hình thành hệ vi sinh vật kháng thuốc kháng sinh, đồng thời làm hủy diệt hệ vi sinh vật tự nhiên vốn là nguồn gốc ban đầu của chu trình dinh dưỡng và sự khoáng hóa của vật chất hữu cơ. Việc sử dụng kháng sinh sẽ làm xáo trộn sự cân bằng vốn rất mong manh của môi trường thủy sinh, làm cho các sinh vật nuôi phải chịu nhiều điều kiện khắc nghiệt hơn. Nếu buộc phải dùng kháng sinh thì chúng phải có nồng độ cao hơn một chút và trong một thời gian đủ dài. Nếu có thể, nên kết hợp các loại kháng sinh khác nhau. Thức ăn có trộn kháng sinh cần phải được làm thành dạng viên. Những biện pháp trên không chỉ giúp cho việc loại trừ các vi sinh vật gây bệnh mà còn giảm nguy cơ hình thành các vi sinh vật kháng thuốc trong các hệ thống nuôi trồng thuỷ sản. Khi kiểm soát việc lây nhiễm khuẩn thì cần phải duy trì được những điều kiện sống thích hợp trong các đầm nuôi tôm và cá, đồng thời cũng phải áp dụng những biện pháp phòng bệnh như sử dụng vắc xin và các chất kích thích miễn dịch. Vì vậy trong nuôi thủy sản phương pháp làm hạn chế việc sử dụng kháng sinh trong việc điều trị phải đặc biệt chú ý đến khâu chọn cá giống , chọn những con cá giống phải cùng đàn, cùng lứa tuổi, có màu sắc tốt, không hoặc ít phải sử dụng kháng sinh trong quá trình ươm. Bên cạnh đó khâu quản lí môi trường nước cũng rất quan trọng vì làm tốt khâu này thì sẽ tạo cho cá có môi trường sống được sạch, cá sống khỏe làm cho khả năng miễn dịch cao ít bệnh thì người nuôi sẽ ít phải sử dụng kháng sinh, hạ giá thành sản phẩm, nếu buộc phải sử dụng kháng sinh thì chúng phải có nồng độ cao hơn một chút và trong thời gian dài. Nếu có thể nên kết hợp các loại kháng sinh khác nhau (không nên phối hợp quá 02 loại kháng sinh cùng lúc trong điều trị bệnh, khi phối hợp cần phải biết công dụng của kháng sinh để mang lại hiệu quả) thì sẽ loại trừ các vi sinh vật gây bệnh mà còn làm giảm nguy cơ hình thành các vi sinh vật kháng thuốc trong ao nuôi thủy sản./.

 

Kỹ sư NGUYỄN QUANG TRÍ, Chi cục Thủy sản Tiền Giang
Tin liên quan