Hành trình đến vinh quang của "bốn Nghệ nhân Ưu tú” Bài 2. Hai nghệ nhân giàu nhiệt huyết
1. CẢ CUỘC ĐỜI CỐNG HIẾN CHO NGHỆ THUẬT
Sinh ra và lớn lên từ vùng quê cách mạng xã Phú An, huyện Cai Lậy, bị chiến tranh tàn phá nặng nề, tuổi thơ với nhiều cơ cực, nhưng cậu học trò nghèo Trần Văn Trầm vẫn quyết tâm vượt qua thử thách, theo đuổi con chữ và không ngừng nỗ lực phấn đấu để trở thành nghệ nhân - nhà điêu khắc tên tuổi.
Xuất thân từ một gia đình đông anh em, tuổi thơ của ông gắn liền với ruộng đồng và sông nước… Do ham học, mỗi ngày ông phải băng đồng gần 8 cây số để đến lớp ở thị trấn Cái Bè (chưa kể những ngày địch tổ chức càn quét, dội bom phải đi đường vòng xa hơn) và tranh thủ trên đường đến trường bắt cá lia thia bán để có tiền ăn học. Đầu năm 1965, giặc Mỹ oanh tạc dữ dội, xóm làng tan hoang vì bom đạn. Khi đó, đang học đệ ngũ (lớp 8), ông suy nghĩ, nếu học tiếp phổ thông dù đậu hay rớt tú tài thì cũng bị địch bắt lính.
Thế nên, năm 1969, ông quyết định thi vào Trường Kỹ thuật Vĩnh Long, kết quả nằm trong tốp 10 thí sinh đạt điểm cao nhất kỳ thi, được ưu tiên chọn ngành học (ông chọn ngành Điện tử). Năm 1972, ông được nhà trường tuyển chọn tham dự và đã đoạt giải Nhất Cuộc thi Điện tử toàn quốc, được Bộ Giáo dục thời đó cấp Bằng Tưởng lệ (Bằng khen). Sau khi ra trường, cha mẹ mất do chiến tranh, ông trở về quê làm ruộng nuôi 6 đứa em.
Tuy gắn bó với công việc đồng áng, nhưng lúc nào ông cũng suy nghĩ phải tìm cách thay đổi cuộc sống, thay đổi hoàn cảnh. Năm 1978, ông nộp hồ sơ dự thi và trúng tuyển vào Khoa Điêu khắc, Trường Đại học Mỹ thuật TP. Hồ Chí Minh. Sau 8 năm trui rèn, ông đậu tốt nghiệp, được trường giữ lại, phân công tham gia sáng tác và xây dựng các công trình mỹ thuật trong thời gian 2 năm. Cũng trong thời gian này, tác phẩm đầu tay ông được tham gia chỉ đạo “Mẹ đồng bằng” (công trình bê tông cốt thép) cao 32 m, xây dựng tại Nghĩa trang Liệt sĩ tỉnh Vĩnh Long.
Qua trải nghiệm thực tế, ông càng đam mê cái nghiệp mà mình đã chọn và quyết tâm theo đuổi đến cùng. Trong thời gian công tác tại Hội Văn học - Nghệ thuật tỉnh, rồi Bảo tàng Tiền Giang, cho đến lúc nghỉ hưu ông đã sáng tác và chỉ huy xây dựng hơn 70 công trình, tác phẩm điêu khắc, gồm: Tượng đài, bia truyền thống, biểu tượng và nhiều thể loại điêu khắc tạo hình khác.
Phần lớn các tác phẩm của ông khắc họa chân dung các nhân vật lịch sử và các dữ kiện lịch sử (trận đánh), tiêu biểu là các tác phẩm: Căn cứ Tỉnh ủy Long Tiên, Bình Xuân; Bia căm thù Bến đò Phú Mỹ; Tượng đài Anh hùng dân tộc (AHDT) Thủ Khoa Huân, AHDT Thiên Hộ Dương; tượng đồng chí Nguyễn Văn Côn…
Một số tác phẩm khác do ông sáng tác còn tạo dấu ấn ở một số tỉnh, thành: Tượng đài “Đốc binh Lê Cẩn - Nguyễn Giao” (đồng đúc cao 10 m) và Tượng đài “Chi bộ đầu tiên” (đá Granite cao 30 m) ở tỉnh Vĩnh Long; Tượng đài “Chiến thắng Tiểu đoàn 857” (đá Granite, cao 15 m, do ông và người em ruột là Nhà điêu khắc Trần Thanh Tùng đồng tác giả) và tác phẩm “Giấc mơ xa” (đá Marble) ở TP. Hồ Chí Minh; tác phẩm “Bất khuất” đá Granite (Trại Sáng tác điêu khắc đá Côn Đảo, năm 2009)… Bên cạnh đó, ông còn hỗ trợ chuyên môn cho đồng nghiệp thực hiện gần 20 tượng đài tại nhiều tỉnh, thành như: Tượng đài chiến thắng Quân khu 9 (Cần Thơ); Bà mẹ Đồng Khởi (Bến Tre); Tượng đài Đầu Tiếng (Bình Dương); Tượng đài Hữu nghị Việt – Xô (Cam Ranh)…
Ngoài sở trường khai thác về đề tài lịch sử, nghệ nhân Trần Văn Trầm còn tái hiện lại vẻ đẹp hoang sơ về những miền quê, những thân phận, những ký ức về thời thơ ấu qua những tuyệt tác như: Gà chọi, Cà nanh, Ký ức nẩy mầm, Thân phận... Bên cạnh việc sáng tác và chỉ huy xây dựng công trình, ông còn tham gia giảng dạy, tổ chức triển lãm, trưng bày tác phẩm tại các bảo tàng, nhà truyền thống…
Mặc dù gần bước qua tuổi “thất thập” nhưng nghệ nhân Trần Văn Trầm chưa chịu ngơi nghỉ. Dường như ông vẫn còn nặng nợ và đam mê cái nghiệp vốn đã gắn bó với ông suốt 40 năm qua. Ông phấn khởi cho chúng tôi biết: “Công trình “Chuyến tàu tập kết ra Bắc 1954” do tôi và nhà điêu khắc Trần Thanh Tùng đồng sáng tác, qua nhiều đợt tuyển chọn, Hội đồng thẩm định tỉnh Cà Mau đã thống nhất chọn mẫu phác thảo này và sẽ đề xuất tỉnh bố trí vốn thi công trong thời gian tới”.
2. CHUYÊN GIA PHỤC CHẾ CÔNG TRÌNH ĐIÊU KHẮC CỔ
Hơn 30 năm gắn bó với nghề điêu khắc gỗ, nghệ nhân – nhà điêu khắc Nguyễn Thị Tuyết Huệ (ngụ phường 1, TP. Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang) đã chế tác nhiều tác phẩm gỗ điêu khắc có giá trị về mặt nghệ thuật. Đặc biệt, bà được đánh giá là một trong những chuyên gia có một không hai ở tỉnh Tiền Giang về sao chép và phục chế những tác phẩm điêu khắc cổ, được giới mộ điệu đồ cổ phong cho biệt danh “Bác sĩ chỉnh hình đồ gỗ”.
Nghệ nhân Nguyễn Thị Tuyết Huệ cho biết, trước đây bà theo học chuyên ngành Y tá, năm 1983 ra trường bà được nhận vào làm việc tại Bệnh viện Y học dân tộc tỉnh. Tuy hoạt động trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe nhưng bà rất đam mê hội họa và điêu khắc. Trong những dịp nghỉ lễ, tết, bà dành phần lớn thời gian ở nhà để tô vẽ, trang hoàng nhà cửa.
Nghệ nhân Nguyễn Thị Tuyết Huệ đang phục chế tác phẩm
Nhờ sự hỗ trợ, định hướng của người thân và gia đình, năm 1985 bà quyết định xin nghỉ việc ở bệnh viện, đăng ký dự thi và trúng tuyển ngành Điêu khắc, Trường Trung cấp Mỹ thuật - Mỹ nghệ tỉnh Long An. Sau khi tốt nghiệp, bà được trường giữ lại để vừa trực tiếp sáng tác, vừa đào tạo nâng cao tay nghề. 5 năm sau, bà trở về mở cơ sở điêu khắc tại nhà (phường 1, TP. Mỹ Tho); đồng thời, phối hợp với Tỉnh đoàn mở hàng chục lớp đào tạo nghề điêu khắc cho trên 300 thanh niên trong tỉnh trong suốt 3 năm liền. Trong số những học trò của bà, nhiều người nay đã trở thành nghệ nhân thành đạt.
Theo bà Huệ, ngoài năng khiếu, khéo tay, nghề điêu khắc đòi hỏi người học phải có sự kiên trì, óc tưởng tượng phong phú; đặc biệt, việc thể hiện cảm xúc cùng sự nhập tâm trong quá trình sáng tác sẽ góp phần quan trọng cho sự thành công của tác phẩm. Nghề này còn đòi hỏi sự dẻo dai của cơ bắp, môi trường làm việc nhiều bụi bặm, tiếng ồn…, nên không thích hợp với phụ nữ chân yếu, tay mềm. Thế nhưng, với niềm đam mê nghệ thuật, bà đã nỗ lực vượt qua khó khăn và gặt hái nhiều thành công trên bước đường chinh phục thử thách.
Hơn 30 năm hành nghề, bà Huệ nhận ra rằng, trường học vốn chỉ cung cấp kiến thức cơ bản. Trong thực tế, phải chịu khó nghiên cứu, tìm tòi, sáng tạo mới có thể tạo ra những tác phẩm có giá trị về mặt nghệ thuật.
Chỉ cho chúng tôi xem một sản phẩm gỗ vừa chạm khắc xong, bà Huệ cho biết: “Những nét chạm này tôi nghiên cứu và làm theo nét chạm đồ cổ cách nay hàng thế kỷ. Từng đường nét chạm khắc trông mềm mại, uyển chuyển; những đường cong thướt tha, láng mịn, không sần sượng, có thể dùng tay để phủi từng hạt bụi bám…”.
Theo bà Huệ, đối với tác phẩm điêu khắc tạc tượng người, tượng Phật là khó nhất, đòi hỏi phải có sự cân đối về bố cục theo 4 chiều, cũng như sự cân đối giữa các bộ phận, các chi tiết trên cơ thể. Đối với các tượng tâm linh tượng Phật, tượng Tam Đa (Phúc, Lộc, Thọ)…, khi tạo tác, đòi hỏi phải có sự tập trung cao độ, nhất là khi chạm khắc phần khuôn mặt, nghệ nhân phải tràn đầy năng lượng, thời điểm thực hiện tốt nhất là vào sáng sớm.
Một số tác phẩm do bà tạo tác được đánh giá cao về mặt mỹ thuật, rất tinh xảo và cũng rất khác biệt như: Tượng Phật; phù điêu tứ linh; tranh 4 mùa (mai, lan, cúc, trúc); tủ Louis bông hồng (Pháp); chân bàn “lá hóa hổ”; chò cù, mai, điểu (chò đầu rồng, chim đậu trên thân mai)…
Đặc biệt, nhờ nghiên cứu kỹ thuật chạm khắc đường nét của người xưa, bà đã vận dụng vào việc phục chế nhiều tác phẩm cổ bị hư hỏng hoặc mất một số chi tiết trở lại gần như nguyên trạng ban đầu.
Những tác phẩm bà đã phục chế thành công gồm: Sao chép và phục hồi bao lam chùa Vĩnh Tràng; chạm phục hồi bộ liễng, cột, kèo đình Long Hưng (Di tích lịch sử Nam kỳ khởi nghĩa (huyện Châu Thành); phục chế hoa văn cổng nhà Đốc phủ Hải (TX. Gò Công); phục hồi cột bê tông chạm trổ rồng Lăng Tứ Kiệt (TX. Cai Lậy); sao chép tủ lục giác từ thời Pháp cho chủ nhân là ông Sáu Hột Soàn (TP. Mỹ Tho)…
Theo bà Huệ, để phục chế một tác phẩm thành công, đòi hỏi nghệ nhân phải đầu tư nhiều thời gian, công sức và trải qua nhiều công đoạn tỉ mỉ, công phu: Nghiên cứu đường nét chạm khắc; phác thảo trên giấy; dán lên gỗ và lọng định hình; dùng các loại đục chuyên dụng (đục dũm, đục sút, đục tỉa, đục lá…) để chạm khắc, phục hồi nguyên trạng…
Từ những mẩu gỗ vô hồn, qua đôi tay khéo léo của mình, nghệ nhân Nguyễn Thị Tuyết Huệ đã biến chúng trở thành những kiệt tác; đặc biệt, có một số chi tiết tác phẩm sau khi được bà phục chế, ngay cả những chuyên gia về đồ cổ cũng khó phân biệt được so với tác phẩm nguyên thủy ban đầu.
Thạc sĩ Nguyễn Mạnh Thắng, Giám đốc Bảo tàng Tiền Giang nhận xét: “Với tay nghề điêu luyện, nghệ nhân Nguyễn Thị Tuyết Huệ có nhiều công lớn trong việc phục chế những tác phẩm cổ bị hư hỏng, xuống cấp trở lại nguyên trạng ban đầu. Những đóng góp cho ngành Điêu khắc gỗ hơn 30 năm qua của nghệ nhân Nguyễn Thị Tuyết Huệ thật xứng đáng với danh hiệu cao quý vừa được Chủ tịch nước phong tặng: Nghệ nhân Ưu tú.
|