Hình ảnh hoạt động
Liên kết website
Quảng cáo
Thống kê
Những lưu ý trong phòng trị bệnh gạo trong nuôi cá tra thâm canh
(Ngày đăng: 05/07/2016)

Những năm gần đây, cá tra nuôi thâm canh thường xuất hiện những nang lấm tấm màu trắng với những hình dạng khác nhau mà bà con nuôi cá thường gọi là bệnh gạo. Bệnh này dù mới xuất hiện nhưng đã gây ra nhiều thiệt hại cho bà con nuôi cá tra do mức độ lây lan rất nhanh, cá nhiễm bệnh sẽ giảm ăn, từ đó làm giảm năng suất và chất lượng thịt. Chính vì thế mà không ít bà con nuôi cá tra thâm canh lo lắng khi cá bị bệnh gạo ngày càng nhiều, mức độ lây lan ngày càng cao, trong khi việc xử lý nguồn nước đầu vào trong nuôi cá tra khó thực hiện.
Bệnh gạo trên cá tra

 

       Triệu chứng của bệnh gạo


       Thực tế trong nuôi cá cho thấy, trong quá trình theo dõi sức khỏe cá tra nuôi hàng ngày, người nuôi cá rất khó xác định bệnh gạo bởi chỉ thấy cá chết rải rác và có dấu hiệu của bệnh gan thận mủ hay bệnh xuất huyết nên dễ gây nhầm lẫn cho người nuôi. Tuy nhiên có thể nhận biết bệnh gạo trên cá tra qua những biểu hiện bên ngoài như: da lốm đốm mất màu, có nốt sần, chấm đen tròn hay tạo thành vệt như dính mực tại những vùng da mỏng như lườn, bụng.


       Đối với những cá bị bệnh gạo nặng, da cá xuất hiện những lỗ thủng nhỏ li ti nhưng không bị xuất huyết. Khi mổ cá bệnh, nội tạng bên trong vẫn bình thường, duy chỉ có điều khác là túi mật hơi căng, dịch mật màu nhợt nhạt. nội tạng cá ít biến đổi, gan thận bình thường, túi mật hơi căng, dịch mật màu nhợt nhạt. Dọc theo cơ vùng sống lưng cá có thể xuất hiện những nang “gạo” thành các vệt dài, hình tròn, hạt gạo hay bầu dục kích thướt 1-3 cm màu trắng đục, bên trong chứa nhiều chất lỏng sệt nằm dọc theo sống lưng, ruột, màng ruột, màng dạ dày.


       Theo tài liệu nghiên cứu khoa học, các bào tử từ các bào nang bệnh gạo bị vỡ nhiễm vào cá sẽ phát triển tạo thành bào nang mới. Tác nhân gây ra bệnh gạo được xác định là do Microsporidia và Myxobolus sp. Hai loại vi bào tử trùng và ký sinh trùng này hiện diện cả trong ao nuôi cá và ngoài tự nhiên, cá bị nhiễm bệnh này do lây từ nước qua mang, da và lây từ mẹ sang con. Khi cá tra bị bệnh gạo sẽ kém ăn, làm giảm năng suất và chất lượng thịt và đây cũng là lý do để các nhà máy chế biến cá tra xuất khẩu không mua hoặc mua với giá rất thấp.


       Hiện nay, bệnh gạo chưa có thuốc đặc trị mà chỉ có thể áp dụng các biện pháp phòng bệnh trước mỗi vụ nuôi mới và ngăn chặn sự lây nhiễm trong ao cá trong nhiễm bệnh. Tuy nhiên, nhiều bà con nuôi cá tra có cá nhiễm bệnh “sốt ruột” mua thuốc thú y tự chế thành nhiều loại thuốc khác nhau để trị bệnh cho cá tra bệnh như dùng các loại thuốc trị giun sán, men rượu… Thực tế cho thấy tất cả các loại thuốc kể trên đều không có hiệu quả, bệnh cá vẫn còn nhưng lại tốn kém, ảnh hưởng đến sức khỏe cá.


       Cần thực hiện các biện pháp phòng bệnh tổng hợp


       Hiện nay, để tránh bệnh gạo trong nuôi cá tra thì việc áp dụng các biện pháp phòng bệnh tổng hợp được xem là có hiệu quả nhất. Cụ thể, khi cải tạo ao cần phải khử trùng nền đáy bằng vôi nung (CaO) liều cao, kết hợp với phơi đáy ao 3-7 ngày. Nước trước khi lấy vào ao nuôi cần phải thực hiện lắng, lọc và xử lý nước cấp để hạn chế mầm bệnh xâm nhập vào ao nuôi. Định kỳ 1 lần/tháng lấy mẫu thẩm tra các chỉ tiêu thuỷ lý, thuỷ hoá, mầm bệnh trong ao xử lý nước cấp và lấy mẫu cá (cá bệnh, cá yếu) để xét nghiệm tác nhân gây bệnh.


       Khi mua cá giống cần phải mổ khoảng 30-50 con cá để kiểm tra bệnh gạo, nếu phát hiện cá nhiễm bệnh gạo thì không chọn mua nguồn cá giống này để thả nuôi. Bà con nuôi cá không nên thả cá giống với mật độ quá cao (thấp hơn 40 con/m2). Trong trường hợp cá nuôi bị bệnh cần phải chuẩn đoán đúng tác nhân gây bệnh để có biện pháp điều trị thích hợp, không được lạm dụng các loại hóa chất, kháng sinh trong phòng trị bệnh, nhất là các loại hóa chất, kháng sinh nằm trong danh mục cấm sử dụng của Bộ Nông nghiệp và PTNT.


       Khi nhận thấy cá có biểu hiện bất thường cần cần mổ cá khám ngay. Khi phát hiện cá trong ao bị nhiễm bệnh phải cách ly ao hoàn toàn, khử trùng toàn bộ dụng cụ nuôi và xử lý triệt để xác cá chết trong quá trình nuôi bằng cách vớt hết cá bệnh, cá chết khỏi ao xử lý bằng cách nấu chín hay chôn hủy, không vứt xác cá ra nguồn nước vì bào tử sẽ phóng thích và lây nhiễm sang các ao khác. Đồng thời cần phải diệt khuẩn cho toàn đàn cá bằng các hoạt chất như: Toltrazuril hay các dẫn xuất của Benzimidazol, Mebendazole, Febendazol…


       Vào những ngày trời se lạnh cá yếu, sức ăn giảm nên cần giảm lượng cho ăn và cho cá ăn vào thời điểm trời đứng bóng về chiều. Khi hút bùn đáy ao xong, cần xử lý nền đáy và xử lý cho nước ao trong trở lại mới cho ăn do cá sống và bắt mồi ở vùng có tích tụ nhiều chất thải và khí độc thì cá sẽ giảm bắt mồi, và đây cũng là điều kiện thuận lợi cho các tác nhân gây bệnh xâm nhập nội tạng.


       Để phòng bệnh cho cá và khử trùng nước ao, định kỳ 10-15 ngày, dùng vôi nông nghiệp hòa nước và tạt đều khắp ao với liều lượng 1,5-2kg/100m3 nước ao. Xi-phông đáy ao định kỳ 2 tháng/lần đối với cá dưới 300g/con và 1 tháng/lần đối với cá trên 300g/con, đồng thời kết hợp xử lý nước sau mỗi lần xi phông.


       Theo nguyên tắc an toàn sinh học, để phòng ngừa các bệnh cho cá tra hiệu quả và tiết kiệm, muối và vôi được khuyến cáo sử dụng theo nguyên tác mỗi ao được treo 4 túi vôi (1-2kg/túi) và 4 túi muối (5-10 kg/túi) được treo ở 4 góc ao khi cho cá ăn. Tùytheo mật độ cá, thể tích nước mà thay đổi liều lượng cho phù hợp và cần thực hiện định kỳ 10-15 ngày/lần.

 
       Nếu phát hiện cá có biểu hiện giảm ăn, nhào lộn dữ dội, trên da và mang cá có nhiều nhớt, cá chết rải rác thì thực hiện treo vôi và muối liên tục trong 3 ngày và mỗi ngày còn phải thay 10-15% thể tích nước trong ao. Trong quá trình nuôi cần định kỳ tẩy giun sán cho cá, tăng sức đề kháng bằng cách bổ sung Sorbitol và Vitamin C thường xuyên vào thức ăn cá, nhất là khi môi trường thay đổi.


       Trong những ngày mưa lũ, bà con nuôi cá ở những vùng có điều kiện nên sử dụng thêm lá xoan, lá giác, cỏ mực... đập dập rồi bọc lại bằng lưới cước treo chỗ cho ăn với liều lượng 5-10kg/mỗi lần treo sẽ nâng cao hiệu quả phòng ngừa các bệnh ngoại ký sinh trên cá.

 

Thành Công
Tin liên quan