Hình ảnh hoạt động
Liên kết website
Quảng cáo
Thống kê
Vấn đề “Thoát nghèo bền vững ở khu dân cư” tỉnh Tiền Giang
(Ngày đăng: 29/05/2012)
Tiếp tục nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành từ Trung ương đến cơ sở và người dân về giảm nghèo, thóat nghèo, xem đây không chỉ là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội mà trước hết còn là nghĩa vụ, bổn phận của chính người dân, ý chí tự vươn lên của người nghèo và họ cần phải làm những gì để thoát nghèo là điều kiện cơ bản để giảm nghèo bền vững.

Ngay từ khi nước ta mới giành được độc lập (năm 1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quan tâm ngay đến nhiệm vụ chống đói nghèo. Người coi đói nghèo là một thứ "giặc" như "giặc dốt", "giặc ngoại xâm". Người khẳng định phải làm sao cho mọi người dân ai cũng ăn no, mặc ấm, ai cũng được học hành. Người chủ trương: "Làm cho người nghèo thì đủ ăn. Người đủ ăn thì khá, giàu. Người khá, giàu thì giàu thêm". Tư tưởng này của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được Đảng ta quán triệt trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.

1. Xóa đói, giảm nghèo góp phần thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta

Mục tiêu Chiến lược xóa đói, giảm nghèo thời kỳ 2006 - 2010 do Đại hội X của Đảng đã đề ra là: "Khuyến khích, tạo điều kiện để mọi người dân làm giàu theo luật pháp, thực hiện có hiệu quả các chính sách xóa đói, giảm nghèo...; phấn đấu không còn hộ đói, giảm mạnh hộ nghèo, tăng nhanh số hộ giàu; từng bước xây dựng gia đình, cộng đồng và xã hội phồn vinh".

Xoá đói giảm nghèo phải dựa trên cơ sở tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả và bền vững, đồng thời chủ động tạo các nguồn lực cho các hoạt động trợ giúp người nghèo đói.

Xoá đói giảm nghèo không chỉ là nhiệm vụ của Nhà nước, của toàn xã hội, mà trước hết là bổn phận của chính người nghèo, phụ thuộc vào sự vận động tự giác của bản thân người nghèo, cộng đồng nghèo.

Đối với tỉnh Tiền Giang, chủ trương giảm nghèo, thoát nghèo bền vững của Tỉnh ủy, HĐND và UBND tỉnh đã cụ thể hóa quan điểm của Đảng: xóa đói, giảm nghèo gắn với phát triển bền vững, gắn với phương châm tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển, góp phần thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".

Với chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước, sự giúp đỡ của cộng đồng quốc tế, sự nỗ lực của nhân dân, nước ta hiện đang dẫn đầu thế giới về xóa đói, giảm nghèo, là một trong những nước giảm nghèo thành công, nhất là trong vòng 10 năm gần đây.

Trong Báo cáo "Việt Nam thực hiện các Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ" công bố ngày 16-9-2005, Việt Nam đã giảm được trên 60% số người nghèo. Tuy nhiên, cùng với một bộ phận dân cư trở nên giàu có, thì vẫn còn không ít người nghèo, hộ nghèo đói, nhất là ở các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số đang là thách thức đối với sự phát triển đất nước theo hướng nhanh và bền vững.

2. Đánh giá việc thực hiện chương trình giảm nghèo, giải quyết việc làm

Nhìn lại chặng đường đã qua có thể nhận thấy những kết quả rất đáng khích lệ mà tỉnh Tiền Giang đã đạt được trong công tác giảm nghèo, thoát nghèo. Có thể khái quát như sau:

Một là, nhận thức, năng lực, trách nhiệm ở các cấp, các ngành và mọi người dân về xóa đói, giảm nghèo đã được nâng cao.

Thông qua việc thực hiện các Chương trình giảm nghèo, giải quyết việc làm giai đoạn 2006 – 2010 theo tinh thần Nghị quyết số 04-NQ/TU ngày 12/4/2006 của Tỉnh ủy, nhận thức của các cấp, các ngành và chính người nghèo được nâng cao, ngày càng thấm sâu vào ý chí của đội ngũ cán bộ và người dân quyết tâm thoát nghèo vươn lên làm giàu. Tỉnh coi xóa đói, giảm nghèo là vấn đề có tính chiến lược lâu dài và luôn đặt công tác này như một nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu trong các chính sách phát triển kinh tế - xã hội của mình.

Hai là, các chương trình mục tiêu xóa đói, giảm nghèo đã đạt được những kết quả khả quan .

Cùng với sự tăng trưởng kinh tế cao và tương đối ổn định, các chính sách xóa đói, giảm nghèo được triển khai đồng bộ trên tất cả các địa phương với đa dạng hóa nguồn kinh phí, cải thiện đáng kể diện mạo nghèo đói trong tỉnh.

Những nỗ lực trên đã góp phần giảm nhanh tỷ lệ nghèo của tỉnh. Năm 2006, số hộ nghèo trong tòan tỉnh là 66.178 hộ, chiếm tỉ lệ 17,89%. Đến cuối năm 2009, giảm còn 35.409 hộ nghèo, chiếm tỉ lệ 8,2%. và còn 7% vào năm 2010 . Bộ mặt các xã nghèo đã có sự thay đổi đáng kể, nhất là về kết cấu hạ tầng. Chất lượng cuộc sống của người dân ở các xã nghèo được nâng lên, nhất là nhóm hộ nghèo và phụ nữ.

Ba là, tạo cơ hội để người nghèo tiếp cận các dịch vụ sản xuất, góp phần tăng thu nhập, giảm nghèo.

- Trong 4 năm 2006 - 2010, có 215.723 lượt hộ nghèo được vay vốn từ Ngân hàng chính sách xã hội với dư nợ lên đến 1.200 tỉ đồng; vốn từ đoàn thể, cộng đồng hơn 192 tỉ đồng cho trên 88.00 lượt hộ vay; tổ chức khuyến công, khuyến nông, khuyến ngư, chuyển giao khoa học kỹ thuật, hướng nghiệp, dạy nghề, giới thiệu việc làm… cho trên 80.000 lượt người. Nhiều dự án ngành nghề giải quyết việc làm trị giá hàng chục tỉ đồng được triển khai thu hút hàng ngàn lao động tham gia.

 Mặt trận Tổ quốc và các ban, ngành, đòan thể các cấp đều có chương trình hưởng ứng bằng những hành động thiết thực vì người nghèo, thóat nghèo bền vững như: Vận động Quỹ “Vì người nghèo”, xây dựng 5943 căn nhà Đại đòan kết trị giá trên 53 tỉ đồng, hỗ trợ trên 15 tỉ đồng cùng xây dựng 2600 căn nhà cho hộ nghèo theo Quyết định 167/TTg của Thủ tướng Chính phủ.; tổ chức trên 8.000 cuộc hội thảo sản xuất, trao đổi kinh nghiệm, chuyển giao khoa học- kỹ thuật cho trên 23.000 đòan, hội viên; xây dựng, triển khai nhiều dự án tín chấp ủy thác gần 46 tỉ đồng giúp nhau giảm nghèo cho trên 40.000 lượt đòan hội viên. Các dự án Việt-Bỉ, dự án tín dụng NMA của Na uy, các qũy giúp nhau, góp vốn xoay vòng… đã phát huy hiệu quả tốt nên rất nhiều hộ đã thoát nghèo, có điều kiện mua sắm thêm các phương tiện, công cụ sản xuất.

- Xây dựng các mô hình chuyển giao tiến bộ về giống mới, quy trình kỹ thuật chăm sóc, bảo vệ cây trồng, vật nuôi. Nhiều mô hình xóa đói, giảm nghèo có hiệu quả được nhân rộng ở các địa phương trong tỉnh như đan bàng, dệt chiếu ở Châu Thành, may mặc, kết hoa vải gia công. Vận động doanh nghiệp đỡ đầu hộ nghèo ở Thị xã Gò Công, đan thảm, bó chổi, lập đội xây dựng ở Gò Công Tây; trồng dừa, mãng cầu xiêm, trồng sả ở Tân Phú Đông; kết cườm, trồng mai ở Chợ Gạo; gia công làm bánh phòng, bánh rế, lột tỏi, lột nhãn, cá cơm đóng hộp, làm khuân vát… ở Cái Bè, hoặc trồng hoa tươi, cây cảnh, may vải vụn, buôn bán nhỏ ở Mỹ Tho … là những mô hình có tính tiêu biểu thoát nghèo bền vững trong những năm qua, đặc biệt quan tâm đầu tư cho các xã đặc thù thuộc vùng sinh thái đặc trưng (vùng ngập lũ sâu và vùng bãi ngang ven biển).

Các xã Bình Ân, Tân Lý Đông, Mỹ Tân, Thanh Hoà, Long Hưng, Đăng Hưng Phước và Tân Mỹ Chánh… đã thực hiện tốt các chương trình trợ vốn có ưu đãi, các dự án hỗ trợ hộ nghèo thoát nghèo thông qua nhiều mô hình đa dạng; vai trò của các đoàn thể nhân dân trong nồng cốt giúp đỡ, hướng dẫn hộ nghèo, hội viên nghèo sử dụng các nguồn vốn hỗ trợ có hiệu quả, sự nỗ lực phấn đấu của hộ nghèo theo từng dự án, trong đầu tư nguồn lực nên đã vươn lên thoát nghèo bền vững.

Bốn là, tạo cơ hội để người nghèo tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản về y tế, giáo dục, nhà ở được các địa phương đặc biệt quan tâm. Đây là hoạt động mang tính đột phá quan trọng trong chương trình giai đoạn 2006 - 2010.

Sau 25 năm đổi mới, thu nhập, mức sống của đại đa số người dân đều được cải thiện, do vậy mức độ nghèo của người dân cũng có sự thay đổi. Một số tài liệu của các tổ chức quốc tế như Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP), Ngân hàng thế giới (WB) cho rằng bản chất của nghèo đói đã thay đổi, đó là nghèo về lương thực, thực phẩm (nhu cầu ăn no, mặc ấm) cơ bản đã được giải quyết. Vấn đề nghèo hiện nay và trong những năm tới là nghèo về các nhu cầu phi lương thực, thực phẩm (nhu cầu về nhà ở, chăm sóc sức khỏe khi ốm đau, giáo dục, văn hóa, đi lại và giao tiếp xã hội) và sự phân hóa giàu nghèo đang có xu hướng tiếp tục gia tăng. Ngoài ra, người nghèo mong muốn vị thế và tiếng nói của mình được nâng cao và bình đẳng với nhóm không nghèo trong tiếp cận các dịch vụ xã hội và thành quả của sự phát triển.

Hiện nay, việc giảm nghèo, thóat nghèo ở tỉnh Tiền Giang đang có những cơ hội thuận lợi. Đó là:

- Tốc độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh tương đối cao và ổn định trong nhiều năm và sẽ tiếp tục giữ được nhịp độ tăng trưởng cao trong những năm tới. Nhờ đó nguồn lực cho giảm nghèo được củng cố và tăng cường.

- Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không ngừng được hoàn thiện, tạo điều kiện thuận lợi hơn để huy động mọi nguồn lực cho phát triển sản xuất kinh doanh và qua đó tạo nhiều việc làm và tăng thu nhập cho người lao động.

- Các chỉ số xã hội cơ bản như tỷ lệ nhập học ở các lứa tuổi, sức khỏe và dinh dưỡng, tuổi thọ, chỉ số phát triển con người (HDI)... không ngừng được cải thiện.

- Các kết cấu hạ tầng như điện, đường giao thông, trường học, trạm y tế, hệ thống thủy lợi, thông tin, điện thoại, nước sinh họat... được xây dựng và mở rộng nhanh chóng, từng bước phát huy tác dụng.

- Qua thực hiện chương trình xóa đói, giảm nghèo đã xây dựng được những mô hình giảm nghèo có hiệu quả, tìm ra những khâu đột phá quan trọng, tổng kết được những kinh nghiệm vận động nhân dân, khơi dậy và phát huy tinh thần "tương thân, tương ái", "lá lành, đùm rá rách" trong công cuộc xóa đói, giảm nghèo. Chưa bao giờ Việt Nam nhận được những sự cam kết và hỗ trợ mạnh mẽ và có hiệu quả của cộng đồng quốc tế, của các tổ chức đa phương và song phương đối với các hoạt động xóa đói, giảm nghèo như hiện nay. Nhờ đó, Tiền Giang sẽ được phân bổ nhiều dự án hơn, nhiều sự hỗ trợ hơn, và như thế việc kết hợp các nguồn nội lực và ngoại lực sẽ tốt hơn cho việc giảm nghèo, thóat nghèo bền vững của tỉnh.

Bên cạnh những thuận lợi và cơ hội, công cuộc giảm nghèo, thóat nghèo của tỉnh Tiền Giang cũng đang đối mặt với không ít những khó khăn và thách thức:

- Tỉnh Tiền Giang vẫn là một trong các tỉnh còn chiếm tỉ trọng nông nghiệp cao trong nền kinh tế, còn có 01 huyện nghèo, thu nhập bình quân theo thực tế (do chính mình làm ra) và chi tiêu bình quân đầu người hiện nay vẫn ở mức thấp.

- Một bộ phận không nhỏ người nghèo, xã nghèo vẫn còn tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào sự hỗ trợ của Nhà nước, chưa chủ động vươn lên thoát nghèo. Do bệnh thành tích, một số địa phương đã báo cáo tỷ lệ hộ nghèo thấp hơn so với thực tế dẫn đến một bộ phận người nghèo chưa tiếp cận được các chính sách của chương trình, gây ra những nhận thức sai lệch về chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước. Chương trình chưa bao quát hết số hộ thực sự nghèo, do chuẩn nghèo giai đoạn 2006 - 2010 quy định còn thấp, vì nguồn lực của Nhà nước còn khó khăn, việc xác định đối tượng ở một số địa phương thiếu chính xác dẫn đến một bộ phận không thật sự nghèo được tiếp cận, hưởng ưu đãi của các chính sách, dự án.

- Nguồn lực huy động cho chương trình còn khiêm tốn, chưa đáp ứng được mục tiêu đề ra. Hằng năm, kinh phí nhà nước bố trí cho chương trình giảm nghèo thấp; trong khi đó, một số huyện, xã chưa chủ động huy động nguồn lực tại chỗ hoặc huy động chưa tương xứng với tiềm năng của mình, còn trông chờ vào sự trợ giúp của Trung ương, của tỉnh; chưa huy động tích cực các đoàn thể, doanh nghiệp có điều kiện tham gia vào công cuộc xóa đói, giảm nghèo.

- Hệ thống chỉ tiêu theo dõi, giám sát, đánh giá chương trình xóa đói, giảm nghèo chưa được tổ chức một cách có hệ thống và đồng bộ.

Hiện nay phần lớn dân nghèo đều mang nợ ngân hàng hoặc nợ dự án, đáo hạn thì vay mới để trả nợ cũ, đối tượng vay ít biến động, số hộ nghèo vay thường chỉ chiếm 40% đến 60% số được vay trong từng dự án. Các cơ quan đầu tư vốn và phần lớn Ban chỉ đạo cấp xã cũng chưa khảo sát, cập nhật đánh giá hết tính hiệu quả của dự án cho vay, bao nhiêu hộ nghèo được vay, bao nhiêu hộ vay được thoát nghèo, bao nhiêu hộ còn khó khăn; kiểm tra chưa tốt việc thực hiện phương án, tình trạng sử dụng vốn đúng hay không đúng mục đích vay; thực trạng vay để trả nợ, để tiêu dùng còn khá phổ biến nhưng vẫn chưa được uốn nắn.

- Xu hướng gia tăng bất bình đẳng và gia tăng khoảng cách chênh lệch giàu nghèo. Tỷ lệ người nghèo ở vùng sâu còn cao.

- Thành tựu giảm nghèo, thoát nghèo chưa bền vững, nguy cơ tái nghèo còn lớn; tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm ở nông thôn còn cao. Bộ máy tổ chức và năng lực cán bộ làm công tác giảm nghèo chưa đáp ứng so với yêu cầu thực tế đặt ra.

3. Một số vấn đề tập trung trong thời gian tới 

Trong Hội thảo ngày 30/7/2010 tại UBMTTQVN tỉnh Tiền Giang, đã tập trung thảo luận một số vấn đề cần thực hiện trong thời gian tới, cụ thể như sau:

3.1 - Đánh giá một cách toàn diện và khách quan thành tựu cũng như những hạn chế, bất cập và nguyên nhân trong công tác xóa đói, giảm nghèo của tỉnh Tiền Giang trong những năm vừa qua và hiện nay, để hướng tới giảm nghèo toàn diện, khách quan, công bằng và hội nhập cộng đồng tốt hơn trong giai đoạn tới (2011 – 2015 và đến 2020).

3.2 – Trách nhiệm của Đảng và hệ thống chính trị về mục tiêu, đối tượng và thời gian trong việc thực hiện Chương trình giảm nghèo - việc làm đến năm 2015 và năm 2020.

- Mục tiêu là đẩy nhanh tốc độ giảm nghèo, hạn chế tái nghèo; củng cố thành quả giảm nghèo, tạo cơ hội cho hộ đã thoát nghèo vươn lên khá giả; cải thiện một bước điều kiện sống và sản xuất ở các xã nghèo, xã đặc biệt khó khăn; nâng cao chất lượng cuộc sống của nhóm hộ nghèo, hạn chế tốc độ gia tăng khoảng cách chênh lệch về thu nhập, mức sống giữa thành thị và nông thôn, giữa nhóm hộ giàu và nhóm hộ nghèo.

- Đối tượng của chương trình là người nghèo, hộ nghèo, xã nghèo; ưu tiên đối tượng hộ nghèo mà chủ hộ là phụ nữ, hộ nghèo có đối tượng bảo trợ xã hội (người già, người tàn tật, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt); ưu tiên vùng còn nhiều khó khăn trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội và lấy địa bàn là xã và ấp để xây dựng kế hoạch trợ giúp.

3.3 - Đẩy mạnh các hoạt động trợ giúp người nghèo phát triển sản xuất, tạo và tăng nhanh thu nhập, vượt nghèo vươn lên khá giả và làm giàu.

- Cung cấp tín dụng ưu đãi hộ nghèo; hỗ trợ những hộ nông dân không còn đất sản xuất, có nhu cầu sử dụng đất để bảo đảm cuộc sống; chuyển giao kỹ thuật, khuyến công, khuyến nông, khuyến ngư và hỗ trợ phát triển sản xuất, phát triển ngành nghề; giúp cho người nghèo nâng cao năng lực sản xuất, sản xuất với năng suất, hiệu quả, chất lượng cao hơn.

- Hỗ trợ phát triển kết cấu hạ tầng thiết yếu các xã vùng bãi ngang ven biển và các xã thuộc huyện Tân Phú Đông, nhằm tạo cho các xã này có những điều kiện cơ bản để phát triển sản xuất theo hướng sản xuất hàng hóa và phục vụ đời sống dân sinh.

- Hỗ trợ dạy nghề cho người nghèo; nhân rộng mô hình giảm nghèo ở các vùng sinh thái, các vùng có nhiều cách làm hay, sáng tạo, hiệu quả cao, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống của người dân. Chú trọng mô hình liên kết doanh nghiệp với hộ, xã nghèo tạo nên sự liên kết chặt chẽ giữa nhà nông, nhà băng, nhà khoa học và nhà doanh nghiệp ở các vùng có khả năng phát triển cây, con theo hướng tập trung chuyên canh quy mô lớn và vừa. Hỗ trợ phát triển các xã nghèo, tạo cho họ tính làm chủ, tính chủ động, sáng tạo trong việc lập kế hoạch phát triển cộng đồng với sự tham gia của người dân.

3.4 - Tạo cơ hội để người nghèo tiếp cận các dịch vụ xã hội công bằng và chất lượng hơn, đặc biệt là về y tế, giáo dục, nước sạch và nhà ở, bao gồm các chính sách hỗ trợ cho người nghèo về y tế, giáo dục, về nhà ở và nước sinh hoạt.

3.5 - Đẩy mạnh các hoạt động truyền thông về giảm nghèo và về pháp luật, nâng cao nhận thức của người nghèo và cộng đồng nghèo.   

3.6 - Tăng cường các giải pháp để thực hiện Chương trình giảm nghèo, thoát nghèo bền vững.

Một là, phải tiếp tục nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành từ Trung ương đến cơ sở và người dân về giảm nghèo, thóat nghèo, xem đây không chỉ là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội mà trước hết còn là nghĩa vụ, bổn phận của chính người dân, ý chí tự vươn lên của người nghèo và họ cần phải làm những gì để thoát nghèo là điều kiện cơ bản để giảm nghèo bền vững.

Hai là, xã hội hóa nguồn lực cho giảm nghèo bao gồm ngân sách Trung ương, ngân sách địa phương, cộng đồng, doanh nghiệp, quốc tế, vốn tín dụng... Tranh thủ tối đa sự tài trợ của các tổ chức quốc tế đa phương, song phương và phi chính phủ trên cả ba phương diện là tài chính, kỹ thuật và kinh nghiệm. Dựa trên những định hướng phát triển kinh tế - xã hội của các xã, huyện để có những giải pháp giảm nghèo, thóat nghèo phù hợp.

Ba là, giảm nghèo, thóat nghèo có hiệu quả hay không không thể không có đội ngũ cán bộ chuyên trách ở cơ sở và sự tham gia tích cực của người dân vào mọi hoạt động của chương trình xóa đói, giảm nghèo từ việc lập kế hoạch, quản lý nguồn lực, triển khai thực hiện, đánh giá, giám sát một cách công khai, dân chủ, minh bạch. Cần có chế độ phụ cấp thỏa đáng cho cán bộ chuyên trách làm công tác xóa đói, giảm nghèo ở cơ sở, nhất là các xã đặc biệt khó khăn để bảo đảm chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước, mục tiêu của chương trình thực sự đi vào cuộc sống./.

Nguyễn Bình Luận - PCT Liên hiệp hội - Ủy viên UBMTTQVN tỉnh Tiền Giang
Tin liên quan